Thứ Bảy, 28 tháng 2, 2009

LỄ HỘI

(bà con khmer ở Tri Tôn dùng xe ngựa đi dự lễ hội)
(các đội văn nghệ Kinh, Hoa, Chăm, Khmer phục vụ lễ hội)

(ảnh baoanhdatmui.vn)


BÀN THÊM VỀ NÉT ĐẸP TINH THẦN



CỦA LỄ VÍA BÀ CHÚA XỨ.

TS. Trần Văn Nam

Lễ hội vía bà Chúa Xứ ở Núi Sam, Châu Đốc , An Giang, diễn ra từ ngày 23 đến 27 tháng 4 âm lịch (25 là ngày chánh lễ), là một trong những lễ hội lớn nhất của Nam bộ.
Tầm vóc hoành tráng của lễ hội thể hiện ở nhiều mặt. Về thời gian, khách hành hương bắt đầu kéo về Núi Sam để chiêm ngưỡng Bà từ đầu tháng 4 (thậm chí là từ sau Tết Nguyên đán), cho nên có thể nói lễ hội kéo dài hàng tháng. Về không gian, nhân dân vùng Châu Đốc tham gia chuẩn bị mọi mặt cho việc tổ chức lễ và phục vụ người hành hương cũng như khách du lịch. Mặt khác, không chỉ người đồng bằng sông Cửu Long mà đồng bào các tỉnh miền Đông Nam bộ và cả Trung bộ cũng tham gia. Quan trọng hơn cả là trong tâm thức người miền Tây Nam bộ, Bà là "Mẹ xứ sở", là vị thần góp phần đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho con người nơi đây. Biểu hiện dễ thấy của nét văn hóa tâm linh nầy ở chỗ, trong mùa lễ hội người dân đã đến đây cầu xin Bà những điều tốt lành với niềm tin "có tin là có thiêng". Thay vì vào chùa cầu tự, những cặp vợ chồng hiếm muộn cũng đến cầu Bà. Dù sao có niềm tin để sống vẫn mang một ý nghĩa nào đó khi mà vấn đề tưởng chừng như vượt quá tầm tay con người.
Thật ra, tín ngưỡng thờ mẫu là một tín ngưỡng truyền thống của người Việt từ ngàn xưa. Đó là tín ngưỡng Tam phủ, thờ Bà Trời - mẫu Thượng Thiên, Bà Đất -mẫu Thượng ngàn, Bà Nước- mẫu Thoải (Thuỷ). Cũng có thể nói là tín ngưỡng Tứ phủ, nếu tính thêm Chúa Liễu Hạnh (mẫu Liễu). Tín ngưỡng thờ mẫu của người Việt mạnh mẽ đến nỗi, đã góp phần âm tính hóa Phật giáo. Khác với Phật giáo Ấn Độ, Phật giáo Việt Nam có Phật Bà và dĩ nhiên có chùa Bà. Riêng ở Nam bộ, người dân sùng bái Bà Đen (Tây Ninh), Bà Nam Hải (Bạc Liêu và các vùng ven biển Nam bộ), Bà Om (của người Khmer Trà Vinh)...Như vậy, tín ngưỡng Bà Chúa Xứ là sự nối tiếp của tín ngưỡng truyền thống.
Sức mạnh của chất âm tính trong tín ngưỡng dân gian còn thể hiện trong cách tiếp nhận tượng thần. Các nhà khảo cổ cho biết, tượng Bà hiện nay đang thờ trong miễu là tượng được tạc bằng đá xanh (không phải đá ở núi Sam) từ nơi khác chuyển đến.(Tạm thời không bàn về gỉa thiết nói rằng tượng có nguồn gốc Ấn Độ, với những linga-yoni bên phải tượng, đường nét nghệ thuật trung cổ Ấn Độ). Chúng tôi muốn nhấn mạnh, đây là tượng nam thần. Tượng nam thần nhưng lại được người dân gọi và tin là Bà. Niềm tin nầy gắn với một truyền thuyết kể rằng, một vị nữ thần tự xưng là Bà Chúa Xứ báo mộng với người dân làng Vĩnh Tế, bảo chọn 9 cô gái đồng trinh lên đỉnh núi Sam đưa tượng Bà về thờ, Bà sẽ phù hộ cho dân sống an bình. Sức mạnh của tín ngưỡng thờ mẫu đã khiến người ta nghĩ đến Bà Chúa xứ chứ không phải là "Ông Chúa Xứ". Có phải chăng, truyền thống văn hóa nông nghiệp, với đặc trưng trọng tình cảm, trọng phụ nữ, cư dân cảm thấy Bà- Mẹ bao giờ cũng gần gũi hơn.
Chúng tôi muốn nói thêm về lễ Rước sắc thần trong quy trình lễ thức. Trước khi lễ túc yết ( đây là chánh lễ) diễn ra, thì sắc thần được rước từ lăng Thoại Ngọc Hầu về miễu Bà. (Thực ra, sắc của vua phong cho Thoại Ngọc Hầu không còn, đây chỉ là rước bài vị của ngài, của hai phu nhân và các quan cùng theo ngài trấn thủ Vĩnh Thanh). Khi đến ngày cuối (16 giờ, ngày 27), sắc thần được đưa trả về lăng, gọi là lễ Hồi sắc. Lễ túc yết trong nghi lễ tế thần bao giờ cũng mang ý nghĩa tạ ơn và cầu xin thần linh. Vậy thì, người dân tạ ơn và cầu xin cả Bà Chúa Xứ lẫn Thoại Ngọc Hầu. Ở đây có sự hội ngộ giữa nhân thần và thần tự nhiên. Việc dân chúng ghi ơn Thoại Ngọc Hầu thì không cần bàn thêm. Nhưng tại sao có sự hội ngộ nầy, chúng tôi chưa dám lạm bàn, sợ rằng không phải với người xưa chăng ? Có điều, truyền thuyết kể rằng, mỗi khi Tướng công Thoại Ngọc Hầu ra trận, các phu nhân đến miễu Bà khấn vái, cầu Bà phù hộ... Về sau, vợ Thoại Ngọc Hầu cho xây lại miễu khang trang hơn, lễ khánh thành diễn ra vào các ngày 24, 25, 26 tháng 4 âm lịch. Từ đó dân chúng lấy ngày nầy làm lễ vía Bà.
Lễ vía Bà Chúa xứ là sinh hoạt văn hóa đẹp của người đồng bằng sông Cửu Long nói riêng của Nam bộ nói chung. Ở đây chúng tôi chỉ nêu lên một vài cảm nhận về những nét đẹp của nó.
T.V.N.

(tuoitreangiang.com)
MẮM ĐỒNG MIỆT VƯỜN


NGUYỄN TRUNG NGUYÊN


Một trong những món ăn thuần túy Việt Nam, có thể nói mắm cá đồng là một loại thực phẩm có nguồn gốc lâu đời nhất. Đã là người Việt Nam chắc rằng suốt trong quãng đời của mình không ai là không một lần nếm cái vị mắm đậm đà, dân dã mà khó quên ấy. Nhiều người Việt xa quê, nổi nhớ cố hương quyện chặt cùng sự thèm thuồng được một lần ăn lại con mắm cá linh xé nhỏ cặp mấy miếng chuối dông, miếng khế, cọng rau thơm... ngốn ngấu cục cơm nguội đến nao lòng.
Ở Đồng bằng sông Cửu Long nơi nào cũng có mắm nhưng để gọi là đặc sản địa phương thì có lẽ chỉ ở Châu Đốc và U Minh. Trong dân gian có nhiều cách chế biến, sử dụng mắm đồng. Tùy mỗi loại cá mà người ta có cách chế biến khác nhau. Có nhiều loại cá làm mắm được nhưng thông thường người ta hay dùng các loại: cá linh, cá rô, cá sặc và cá lóc để làm. Riêng ở vùng rừng U Minh còn có loại mắm sống hảo hạng là mắm lòng (người ta lấy ruột của cá lóc mà làm mắm). Nhiều người cho rằng mắm lòng chính là tiền đề cho mắm thái sau nầy mà hiện nay đã xuất hiện tận nước ngoài.
Cũng như bao nhiêu món ăn khác, đặc biệt với một bữa ăn mắm, rau là thứ phụ gia không thể thiếu, nhưng phải là rau vườn hái ở đâu đó mỗi thứ một mớ thì mới “đã”. Ở Cần Thơ có lẫu mắm Dạ Lý nổi tiếng, ai đã đến đó đều biết một bữa rau của quán nầy phải đến gần 30 loại. Từ rau muống, bông súng, bông điên điển, cù nèo, tai tượng đến rau dừa, khế, chuối chát... còn gia vị thì có xã, ớt, gừng non, củ riềng... Nhiều người sành điệu còn cầu kỳ hơn như rau muống thì phải là rau muống chồi, vì loại nầy ít mủ, lại dòn hơn rau muống đọt. Còn bông súng thì phải là bông súng hoa vì loại nầy vừa dòn vừa ngọt hơn bông súng lá. Người ta nhìn vào ruột của cọng bông súng để phân biệt, nếu có 7 lỗ thì đó là bông súng hoa còn bông súng lá chỉ có 5 lỗ.
Các loại mắm ở vùng đồng bằng dù là của Châu Đốc hay U minh đều có cách làm tương tự nhưng hơn kém nhau ở một phương thức bí mật gọi là “chao mắm”. Giai đoạn nầy được tiến hành sau hai tuần lễ muối cá. Vật liệu chao mắm gồm có nước đường “thắng tới chỉ” và thính được làm từ gạo lức rang vàng, giã nhỏ. Việc đưa các phụ liệu vào cá muối với một liều lượng thích hợp là cả một nghệ thuật vì đây là giai đoạn quyết định sự ngon, dở của cả lu mắm.
Mùa tát đìa, thu hoạch rộ do có quá nhiều cá đồng được dùng làm mắm. Với cá lóc bộ ruột rất ngon, bỏ thì tiếc nên bà con U Minh đã nghĩ ra cách tận dụng ruột cá mà chế ra mắm lòng. Đây là một loại mắm rất ngon được sản xuất bằng một phương pháp đặc biệt với nguyên liệu chính là ruột cá lóc. Mùa khô, cá lóc rất mập, bộ ruột của nó có cả một màng mỡ bao quanh như mỡ sa của heo, đôi khi có cả trứng cá vàng ươm trong bọc. Cách làm mắm lòng cũng như các loại mắm khác nhưng cái đặc biệt ở đây là do có ít nên nó được nhận vào trong cái gáo dừa chớ không phải là lu hay khạp. Đến một thời gian nhất định nào đó, chất mỡ ngấm dần vào ruột, gan cá tạo nên sự độc đáo không giống bất cứ loại mắm nào. Tuy nhiên, do số lượng mắm lòng có hạn không đủ cung cấp cho nhu cầu ăn uống của con người nên từ đó xuất hiện thêm một loại mắm mới. Đó là mắm thái hay còn gọi là mắm ruột, tức mắm lòng. Kỹ thuật chế biến mắm thái người ta cố gắng sao chép lại từ hình thức đến nội dung của mắm lòng.
Ở mắm thái người ta dùng trái đu đủ xanh bào ra làm gỏi trộn với mắm mà người ta đã dùng một loại dụng cụ đặc biệt làm cho thịt mắm bung ra thành những sợi dài trông như ruột cá. Để tạo chất béo người ta trộn vào đó mỡ heo hoặc thịt ba rọi tùy ý thích. Vào thập niên 60 của thế kỷ trước, mắm thái Châu Đốc nổi tiếng như cồn bởi một nhân vật: bà giáo Khỏe. Hiện nay, hậu duệ của mắm thái bà giáo Khỏe vẫn là mặt hàng được ưa chuộng ở Châu Đốc.
Đất nước mở cửa, thị trường tràn ngập đủ loại thực phẩm cao cấp, đa dạng, phong phú mang lại cho bữa ăn của con người nhiều chất dinh dưỡng. Tuy nhiên, mắm đồng vẫn là loại thực phẩm được ưa chuộng đối với không ít người Việt Nam. Xét một góc độ nào đó mắm đồng còn có khả năng tồn tại lâu dài, vì trước hết nó là một món ăn mang nặng tình quê.


Thứ Tư, 25 tháng 2, 2009

CA DAO

(Ảnh Nguyễn Quỳnh Ngọc - bauchon.tuoitre.com.vn)


TÌNH YÊU TRÊN SÔNG NƯỚC
QUA NHỮNG CÂU CA DAO, CÂU HÁT.


THANH TUẤN
Ở Thành phố Cần Thơ quê tôi, người dân ngoại thành hễ mở mắt ra là nhìn thấy sông nước. Nước ăm ắp ngầu đỏ con rạch dưới bến trước cửa, nước trong mương ranh lé đé liếm gần sát sàn lãn bên hè, tiện lợi để làm nơi rửa ráy, tắm giặt cho gia đình. Nhưng dòng sông, mương ranh khi lớn khi ròng, không có vẻ dửng dưng bất biến như những thực thể ngoài thiên nhiên khác: khu vườn, cánh đồng. Mấy tháng trước con rạch còn cạn trơ bãi sình nay nước đã tràn lan khắp nơi, cánh đồng sau nhà mênh mông trắng xóa. Sống kề bên sông, đặc biệt nếu được ngồi trên một con thuyền ngược xuôi trong một khoảng không gian bao la giữa lúc chiều muộn sông đầy, những người có tâm sự thấy cần lắm một sự san sẻ của ai đó cho đỡ cô đơn. Cho nên trong một chừng mực nào đó, ta có thể khẳng định những dòng sông đã là nơi gặp gỡ, ngỏ ý, phát triển và cả những hệ lụy của nhiều cuộc tình quê, làm kho tàng ca dao câu hát của chúng ta lung linh thêm nhiều màu sắc:
A. Gặp gỡ làm quen:
Thuyền ai trôi trước / Cho tôi lướt đến cùng.
Chiều đã về trời đất mông lung / Phải duyên thì xích lại,
Cho đỡ não nùng tiếng sương.
Những ai từng đi thuyền trong đêm vắng trên những nhánh sông rạch chằng chịt ở miệt vườn Cần Thơ rất dễ thông cảm cho tâm trạng của tác giả mấy câu hát trên đây. Giữa khoảng thiên nhiên vắng vẻ mênh mông cái ta của mình nhỏ nhoi và yếu ớt biết chừng nào. Lúc đó ta thấy thèm và thật sự mừng khi bắt gặp dù chỉ là một dấu hiệu hiện hữu mơ hồ của đồng loại, như một đóm nhang đo đỏ ngoài bàn thông thiên ai đó, hoặc một ánh đèn dầu hắt ra từ sau vách lá một căn nhà nho nhỏ ven sông. Cho nên những ghe thuyền đi ban đêm hay tìm cách quần tụ bầu đoàn:
Bớ chiếc ghe sau chèo mau anh đợi,
Kẻo khúc sông nầy bờ bụi tối tăm.
Để có thêm bạn hủ hỉ làm vui trên một khúc sông xa, nhiều người đã không ngại tiến tới làm quen:
Thuyền ai đứng chực bên sông,
Có lòng đợi khách hay không hỡi thuyền?
Để ta kết nghĩa làm quen.
Ngoài việc làm quen giữa người ở ghe nầy với người bên xuồng kia, các chàng trai đường sông cũng không bỏ qua những cô gái đang lao động vất vả hai bên bờ:
Cô kia cắt cỏ bên sông,
Có muốn ăn nhãn thì lồng sang đây.
Do chưa biết gì về nhau nên việc làm quen cũng phải nhẹ nhàng lịch sự, hiếm khi có trường hợp suồng sả:
Hai thuyền đi chung một dòng,
Bơi chèo gần lại cho lòng đỡ suông.
Chào cô trước mũi tiên phuông,
Chào cô sau lái, mặt vuông chữ điền.
Sau màn làm quen, người ta thường hay thử thách tài ứng đối để tìm hiểu tài năng và tánh ý nhau qua những câu ca dao, hò mép:
Khăn vuông bốn chéo một chùm,
Miệng mời người nghĩa hò dùm ít câu.
Qua một vài câu hò trao đổi tìm hiểu, nếu tình cảm dần dần tiến triển, một trong hai người bắt đầu nói xa nói gần:
Nước sông cuồn cuộn chảy xuôi,
Có con cá diếc đỏ đuôi theo mồi.
Hoặc:
Bên sông thanh vắng một mình,
Có ông ngư phủ biết tình mà thôi.
B. Giai đoạn ngỏ ý:
Từ giai đoạn nói xa nói gần cho đến lúc ngỏ ý chỉ còn một khoảng cách ngắn và thường nặng về cảm tính. Trong một phút giây lãng mạn nào đó, có thể sẽ có một người nam bỗng cất giọng hò:
Muốn cho sông cạn đò đầy,
Muốn chung cha mẹ sau nầy với em.

Hoặc:
Sóng bên doi, bỏ vòi qua vịnh,
Anh với nàng trời định đã lâu.
Khi đã được dấu hiệu thuận lợi, lời lẽ chàng trai càng lúc càng nồng nàn, tình cảm hơn:
Ấy ai dắt mối tơ mành,
Cho thuyền quen bến, cho anh quen nàng.
Nhưng cũng có chàng trai nhìn những lượn sóng bỏ vòi trùng điệp trên sông dài mà cảm thương thân, do một nghịch cảnh nào đó nên anh không dám ngỏ lời:
Sông sâu sóng bủa láng cò,
Thương em đứt ruột, giả đò làm ngơ.
Trong tình yêu, không có phút giây nào hồi hộp bằng lúc trao thơ tình, và đây là những lời lẽ mộc mạc của một chàng trai sông nước trong những giây phút hồi hộp ấy:
Con chim chuyền bụi sậy / Con cá quậy bụi tùng.
Anh thương em thảm thiết vô cùng,
Dĩa nghiên mài mực, tạm dùng bức thư.
Một chàng trai miệt vườn khác còn độc đáo hơn, đã có sáng kiến gởi thư tình không dán tem nhưng có “khuyến mãi” một trái bưởi:
Giấy tây bán mấy / Mua lấy một tờ.
Đem về làm bài thơ quốc ngữ / Dán vào trái bưởi /
Thả xuống sông giang hà.
Cả tiếng kêu người nghĩa nọ trên nhà,
Xuống sông vớt bưởi đặng mà xem thơ.
Trước sự bày tỏ thẳng thắn của những chàng trai, nhiều cô gái cũng không ngần ngại bày tỏ nỗi lòng:
Chèo mau để thiếp gặp anh.
Hai ta hiệp lại cho thành một đôi.
Cũng có trường hợp vì một lý do riêng, người nữ e ngại không dám đáp ứng yêu cầu:
Trời mưa ướt đất, con cá cất lên đồng,
Buổi xuân xanh mình không được gặp.
Giờ em có chồng rồi gặp gỡ làm chi.
Nhưng thông thường những trở ngại, vướng mắc hay ở về phía những người nam do thích “đa mang”:
Phải chi anh chưa vợ / Hãy còn nợ còn duyên.
Em cũng cậy yên / Như thuyền cậy lái.
Ai ngờ phận gái / Như lái nghịch chèo.
Thôi anh hãy giữ lấy lèo / Đừng ham thả lỏng hiểm nghèo có khi.
Nhưng đôi khi cũng có những trường hợp ngược lại:
Sông sâu mà sắm đò ngang,
Em nhiều nhân ngãi, em mang oán thù.
Tâm lý phái nữ xưa nay dù đã để ý thương ai thường hay dè dặt và muốn bàn tính chuyện lâu dài:
Trăm năm tính cuộc vuông tròn,
Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông.
Các cô nàng khéo léo nhóng ý người yêu:
Anh về xẻ ván cho dày,
Bắc cầu sông cái cho thầy mẹ qua.
Nhưng trên sông dài muôn ngả không ít trường hợp nhiều chàng trai chỉ tính chuyện ăn xổi ở thì:
Chật hào cá lội sen rung,
Choàng ngang cổ bạn, anh hun cho đỡ lòng.
Có anh còn tham lam không cần giấu giếm:
Cam sành lột vỏ còn the,
Thấy em còn nhỏ, anh de để dành.
Trong trường hợp người nam do dự nửa muốn nửa không, người con gái vừa khuyến khích vừa có cách nói nâng giá trị của mình:
Kinh xáng mới đào / Tàu Tây mới chạy.
Thương thì thương đại / Bớ điệu chung tình.
Con nhạn bay cao khó bắn / Con cá dưới ao Quỳnh khó câu.
Cũng có khi nàng bày tỏ nỗi thất vọng:
Có thương em thì thương cho chặt / Có bỏ thì bỏ cho luôn.
Anh đừng học thói ghe buôn / Lờ đờ nước hến cho buồn dạ em.
C. Phát triển tình yêu:
Sau giai đoạn thử thách, khi tình cảm đã chín muồi, hai đối tượng lúc nào cũng háo hức tìm cách gặp gỡ:
Yêu nhau anh muốn lại gần,
Cầu không tay vịn, anh cũng lần anh đi.
Hoặc:
Đêm trường nước chảy trong veo,
Thương em chẳng nệ mái chèo ngược xuôi.
Trong nhiều trường hợp, nữ giới cũng nồng nhiệt, khao khát không thua gì phái nam:
Yêu nhau chữ vị là vì,
Chữ dục là muốn, chữ tùy là theo.
Ba chữ khoán vĩ từ ba mệnh đề ấy, đọc theo thứ tự là vì muốn theo
chứng tỏ nhân vật nữ nầy vừa có học vừa táo bạo. Một nhân vật nữ khác cũng lãng mạn và nông nổi không kém:
Ước gì sông hẹp một gang,
Bắc cầu giải yếm cho chàng sang chơi.
Khi đã yêu nhau, nữ giới cũng rất thoáng không phân biệt sang hèn, người cố cựu với khách lang bạt phương xa:
Rồng chầu ngoài Huế / Ngựa tế Đồng Nai.
Nước sông trong chảy lộn sông ngoài,
Thương người xa xứ lạc loài tới đây.
Nàng sẵn sàng chia sẻ gian nan cùng người chồng tương lai:
Anh đi ghe rổi chín chèo,
Bởi anh thua bạc nên nghèo nợ treo.
Nợ treo mặc kệ nợ treo,
Em bán bánh bèo trả nợ cho anh.
Nhưng cô bán bánh bèo nầy chắc phải chào thua một cô bán bánh bò sau đây về mức độ yêu chồng:
Bánh bò một vốn, ba bốn đồng lời,
Em khuyên anh ở nhà cứ việc ăn chơi,
Để em buôn bán kiếm lời nuôi anh.
C. Hệ lụy:
Tình yêu không phải lúc nào cũng xuôi chèo mát mái, nó thường gặp trở ngại. Trở ngại thường gặp nhất là cha mẹ hai bên không tán thành:
Lồng đèn treo cột đáy / Nước chảy lồng đèn rung.
Anh với em đi ra cũng xứng / Mà đứng lại cũng vừa.
Chỉ tại hai bên cha mẹ kén lừa sui gia
Nhưng:
Lồng đèn treo cột đáy / Nước chảy lồng đèn xoay.
Dĩa nghiêng múc nước không đầy,
Lòng thương người nghĩa cha mẹ rầy cũng thương.
Có khi cuộc tình trở ngại do một trong hai người gặp hoàn cảnh phải chia xa:
Ghe anh lui về Gia Định
Em thọ bịnh đau liền,
Không tin anh hỏi lại xóm giềng có không.
Do tình yêu không suôn sẻ nên có khi chỉ cách một bến sông mà cũng không có lý do thăm viếng:
Sông sâu sào vắn khó dò,
Muốn qua thăm bậu ngặt đò không đưa.
Không thăm được nhau thì sầu khổ, nhung nhớ khôn nguôi:
Trời xanh kinh đỏ đất xanh,
Đĩa bu muỗi cắn làm anh nhớ nàng.
Nỗi nhớ nhung còn được đẩy lên cao trào khi nhìn ra sông rộng:
Ngó ra sông cái / Ngó ngoái thấy đình.
Hạc chầu thần còn đủ cặp / Huống chi mình lẻ đôi.
Có người chỉ thương nhớ, than thân trách phận một cách thụ động:
Ghe lui khỏi bến còn dầm,
Người thương đâu mất chỗ nằm còn đây.
Hoặc:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Trông về Thị Đội ruột đau chín chiều.
Nhiều người khác lại chủ động hơn, muốn bảo vệ người yêu:
Cá sầu ai cá chẳng quạt đuôi,
Như lan sầu huệ như tui sầu mình.
Tử sanh sanh tử tận tình,
Dù ai ngăn đón, tui cứ mình tui thương.
Và người ta động viên nhau:
Sông hồ một giải con con,
Gặp cơn sóng gió chớ non tay chèo.
Yêu nhau sanh tử cũng liều,
Thương nhau lặn suối qua đèo có nhau.
Những mối tình trên sông nước trên đây dù có trắc trở hay không, cũng đã phôi pha theo qui luật cuộc đời, chỉ còn lại những câu ca dao, câu hát huê tình, gợi nhớ một thời xuồng ghe tấp nập nơi các ngôi chợ vàm hay những xóm ven sông, chỗ giáp nước. Đây chính là một loại văn hóa phi vật thể đặc trưng, cái hồn sông của vùng sông nước Tây Nam Bộ mà Thành phố Cần Thơ là một điểm hợp lưu tiêu biểu. Cái hồn sông nầy vẫn là một thứ mạch ngầm mát rượi vẫn len lỏi xuyên suốt qua nhiều đời tận trong tâm khảm của chúng ta.

CƠM CHAY


CƠM CHAY CẦN THƠ

TS.Trần Văn Nam

Hầu hết các thành phố, thị xã thuộc đồng bằng sông Cửu long đều có quán cơm chay. Thành phố Cần Thơ cũng thế, thực khách có thể tìm một nơi ăn cơm chay ngon trên các con đường lớn. Trong bài viết nầy, chúng tôi xuất phát từ thực tế khảo sát các quán cơm chay thuộc nội thành Cần Thơ.
Sau đây là bảng Thực đơn khá phổ biến của các quán cơm chay Cần Thơ:
1. Phở 14. Bún cary
2. Bánh mì - bò kho 15. Cơm phần
3. Mì xào giòn 16. Cơm rang
4. Mì 17. Cơm tấm
5. Hủ tíu 18. Cơm dĩa
6. Hủ tíu xào 19. Bánh ướt
7. Bún măng 20. Bánh lọt
8. Bún thịt nướng 21. Cháo
9. Bún Huế 22. Bánh giò
10. Bún rêu 23. Bánh bao
11. Bún chả giò 24. Chả giò
12. Bún xào 25. Gỏi cuốn
13. Bún mắm 26. Rau câu
So với trên dưới 200 món ăn trong các sách dạy "Nấu món chay"đã được công bố thì bảng thực đơn trên khá đơn giản, gồm 21 món "ăn no" (từ 1 đến 21), 4 món "ăn thêm" (từ 22 đến 25) và một món tráng miệng (26). Đây là những món ăn không yêu cầu một "quy trình chế biến" phức tạp hay cách thức bày trí cầu kỳ(nếu so với các món khác như món kiểm chẳng hạn...) và chúng đã được thực khách chấp nhận.
Nếu thực khách gọi "cơm dĩa" thì trong dĩa cơm có các thức sau: cơm, đậu hủ , mì căng (một loại đậu hủ non) xào và xắt mỏng; cải xanh, bắp cải xắt nhỏ xào. Ngoài ra, còn có thêm một ít dưa leo muối hoặc cải làm dưa.Trong quá trình chế biến người ta thường cho thêm tiêu vào các món xào. Đặc biệt, vị cay của tiêu cộng với vị mặn của nước tương làm cho miếng đậu hủ xào càng thêm ngọt bùi. Cộng vào dĩa cơm còn có một chén "canh chua" nhỏ, trong đó gồm cà chua, bạc hà và giá. Nếu thực khách gọi thêm 2 gỏi cuốn bên cạnh chén xì dầu (dùng cho ăn chay) pha hai muỗng cà phê tương ớt thì tuyệt vời. Gỏi cuốn chấm xì dầu tương ớt (tương ớt không cay xé môi như ớt tươi mà chỉ hơi nồng) vừa thấy vui mắt, kích thích vị giác vì độ tương phản của các màu trắng, đỏ, đen vừa cho thực khách một thoáng "dân dã" vì thường là dùng tay khi ăn. Món rau câu tráng miệng sẽ kết thúc bữa ăn giản dị, lưu lại vị ngọt và hương thơm.
Các quán cơm chay thường đông thực khách vào những ngày 14, 15 (rằm), 29, 30 âm lịch. Tác giả ca dao đã từng nhắc đến những ngày nầy:
Ngày rằm trăng tỏ trăng tròn,
Ba mươi mồng một anh còn ăn chay.

Sáng trăng sáng cả đêm rằm,
Nửa đêm về sáng trăng nằm ngọn cây.
Nhớ ngày mồng một ăn chay,
Cộng thêm mười bốn, trọn ngày mười lăm.
Tuy vậy, những ngày khác trong tháng các quán nầy vẫn có một lượng khách đáng kể, không thua kém các quán ăn "mặn". Đặc biệt các ngày cuối tuần, ngày cán bộ công chức và học sinh sinh viên được nghỉ, số người đi ăn cơm chay tăng lên rõ rệt. Tạm thời có thể chia thực khách cơm chay ra làm các nhóm sau đây:
Thứ nhất là những Phật tử (hoặc tín đồ thuộc các tôn giáo chịu ảnh hưởng Phật giáo) : trong số nầy có những người ăn chay từ 4 đến 10 ngày trong tháng, ăn chay suốt tháng (thường là tháng giêng, tháng bảy, tháng mười) hoặc cả năm (ăn chay trường). Đây là những người ăn chay theo quan niệm "tránh sát sinh" (hoặc chí ít cũng hạn chế việc sát sinh, nhắc nhỡ ý thức tránh sát sinh), hạn chế sự phát dục của cơ thể...
Thứ hai là những người lao động thu nhập thấp. Cơm chay Cần Thơ... là "cơm bình dân" trong tương quan so sánh với các món "mặn" khác. Người lao động có thu nhập thấp (trong trường hợp công việc lao động không đòi hỏi nhiều năng lượng) ăn cơm chay để tiết kiệm chi phí sinh hoạt. Hơn nữa, người ta có thể ăn nhẹ vào buổi chiều, bắt đầu thời điểm nghỉ ngơi, cơ thể và ngay cả dạ dày cần giảm hẳn cường độ làm việc.
Thứ ba là những người muốn thay đổi khẩu vị. Cả tuần ăn thịt cá toàn những món "cao lương mỹ vị" khi tìm đến cơm chay như tìm được một thứ "hương vị lạ"hoặc "hương xưa", thực khách có cảm giác ngon miệng hơn. Một bữa cơm chay đối với nhóm nầy nhiều khi tốn kém hơn một buổi cơm thường, bởi vì người ta gọi thêm món hoặc ăn "đúp" cho "đã thèm".
Quán cơm chay không chỉ có cơm mà còn có cả bún, hủ tíu, mì với các tên gọi cụ thể như bún khô, bún nước, cơm "thịt kho", hủ tíu-mì...Những thức ăn nầy xét cho cùng đều nằm trong khuôn khổ của các thứ sau đây: gạo-bột, đậu nành (tàu hủ, tương, chao), các loại rau, trái, củ. Có thể nói, các món chay là biểu hiện sâu sắc văn hóa ẩm thực của cư dân nông nghiệp. Đó là một cơ cấu bữa ăn lấy thực vật làm chính. Thực vật là sản phẩm của cư dân nông nghiệp từ ngàn xưa. Tục ngữ người Việt có câu "đói ăn rau, đau uống thuốc", và thuốc chữa bệnh chủ yếu vẫn là thực vật. Nói như vậy để thấy rằng việc ăn chay không đơn thuần là văn hóa ẩm thực Phật giáo mà còn là tập quán của cư dân nông nghiệp. Điều nầy góp phần lý giải câu hỏi vì sao có một lượng thực khách đáng kể đến quán cơm chay nhưng không phải là Phật tử. Ca dao cổ truyền người Việt ghi lại một cảnh đời của người nông dân thông qua món ăn mà cảnh đời ấy đã trở thành một niềm nhớ :
Ra đi anh nhớ quê nhà,
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương,
Nhớ ai dãi nắng dầm sương,
Nhớ ai tác nước bên đường hôm nao.
Sức mạnh của văn hóa ẩm thực truyền thống vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến lối ăn của người Việt tại đồng bằng sông Cửu Long. Trong các nhà hàng có những món ăn với nhiều rau, chẳng hạn như lẩu mắm, lẩu chua, lẩu mắt heo, bánh cống, bánh xèo...Một điều khá đặc biệt là trong các quán nhậu ngày nay đôi khi thực khách được "quay về" với món ăn thực vật (mang tính chất như món ăn chay), chẳng hạn như bầu luộc chấm chao, nấm xào dầu...Trong lúc đang ngà ngà say, một miếng bầu luộc còn âm ấm chấm với miếng chao vừa cay vừa mặn có thể làm người ta tỉnh lại.
Trong quán cơm chay, các món chay thường có tên của món mặn như "thịt kho, tôm kho tàu..." Dường như nguyên nhân ban đầu của thực tế nầy là việc gọi tên các món chay có khó khăn nhất đinh. Lý do đơn giản là đa số món ăn đều chế biến từ tàu hủ. Cứ tên gọi nào cũng có danh từ "tàu hủ" thì bảng thực đơn quá đơn điệu. Thực tế nầy đòi hỏi các "vua bếp "chay phải vay mượn tên gọi trong bảng thực đơn mặn. Trong chừng mực nào đó, đây là biều hiện của tính chất nhập thế của Phật giáo về mặt ẩm thực. Hơn nữa, một Phật tử, một nhà sư mà tâm của họ đã đạt đến cảnh giới cao thì những tên gọi của sự vật hiện tượng đều không quan trọng. Phật giáo đề cao cái tâm cho nên việc ăn chay hay ăn mặn có ý nghĩa đến mức độ nào còn tuỳ thuộc vào cái tâm ấy, như tác giả dân gian đã từng nhắc nhỡ qua tục ngữ:"Ăn mặn nói ngay còn hơn ăn chay nói dối"
Các quán cơm chay có nước giải khát nhưng tuyệt nhiên không có rượu, bia và thuốc lá. Theo Ngũ giới của Phật giáo thì uống rượu là điều cấm kỵ. Về vị trí, có quán cơm chay ngay trong khuôn viên chùa, có chỗ bày bán cơm chay cạnh chùa. Không gian ẩm thực nầy nhắc nhỡ chủ quán cơm giữ gìn giới luật, nên không có rượu Thực tế hơn, một quán cơm không có rượu (ngay cả quán cơm "mặn") sẽ tránh cho chủ quán những phiền toái khi phục vụ một số thực khách muốn uống "cho đã". Hơn nữa, những người uống rượu sành điệu đương nhiên sẽ tìm đến các nhà hàng, các quán nhậu. Cũng chính không gian ẩm thực nầy tác động ít nhiều đến cách giao tiếp trong quán ăn. Người phục vụ ở đây thường không cố ý nói những lời mượt mà như các tiếp viên nhà hàng mà là những lời chân thật, hoà ái. Đáp lại, thực khách cũng thường nói năng nhẹ nhàng, không có thái độ "ông chủ" hoặc "thượng đế". Trong một không khí như vậy hương vị món chay sẽ đậm đà hơn, bữa cơm chay tạo cho thực khách một cảm giác bình an, một thái độ hướng thiện, gạt sang một bên nỗi ám ảnh về cuộc sống lắm gian truân.
Bữa cơm chay trong gia đình (không phải quán ăn) người dân "miệt vườn" thường rất đạm bạc. Không phải vì thiếu tiền cho việc chuẩn bị bữa ăn mà do quan niệm về việc ăn chay. Ăn chay là hướng về một đời sống bình dị, đơn giản, khắc kỷ : "Ăn chay, nằm đất", "Gió trăng mát mặt, muối dưa chay lòng". Có khi trên bàn ăn chỉ một dĩa rau luộc với một chén tương chao hòa chung, có khi đó là một chén muối tiêu với vài trái chuối xiêm chín...Thực tế nầy còn do một nguyên nhân "đời thường" nữa. Gia đình có sáu nhân khẩu mà chỉ có ông bà già ăn chay, cứ mỗi nửa tháng ăn chay hai ngày. Vậy thì cứ "ăn lạt"để tiện việc cho người nhà, có khi đó là con dâu-một lao động chính.
Cơm chay là một nét văn hóa ẩm thực, nó tồn tại không chỉ do ảnh hưởng của Phật giáo mà còn do tiếp nối tập quán ăn uống của cư dân nông ngiệp. Cơm chay có tác động ít nhiều đến tinh thần và sinh hoạt đời sống cộng đồng. Cơm chay Cần Thơ không dành riêng cho những người ăn chay mà là món ăn cho những người hướng tới cái giản dị và trong trẻo trong đời sống thường nhật.

Thứ Ba, 24 tháng 2, 2009

Địa danh Cần Thơ

(Nhà việc Cái Răng xưa kia)

Ý THỨC LỊCH SỬ VÀ CẢM HỨNG THẾ SỰ
QUA MỘT SỐ TRUYỆN VÀ GIAI THOẠI ĐỊA DANH CẦN THƠ

Ts.Trần Văn Nam

Truyện kể địa danh hiểu một cách đơn giản và nói ngắn gọn là truyện có yếu tố giải thích tên riêng của vùng đất, làng, ngọn núi, dòng sông, cánh đồng…Bên cạnh truyện kể, ở một cấp độ khác với truyện, có thể tạm gọi là giai thoại địa danh: là những giai thoại nhằm giải thích những tên riêng chỉ địa điểm. Truyện hoặc giai thoại địa danh thường có yếu tố giải thích địa danh ở cuối tác phẩm dưới hình thức đặt tên cho địa điểm hoặc sự vật. Theo quan niệm nầy, chúng tôi tìm hiểu một số truyện (giai thoại) địa danh của Cần Thơ.
Những địa danh quen thuộc của Cần Thơ như Cần Thơ, Cái Răng, Xà No…đã từng được giái thích theo hướng nầy hoặc hướng khác. Chẳng hạn, “Cần Thơ” có nguồn gốc ban đầu là “cầm thi” hoặc “Cần Thơm” hay “kìn tho”. Bài viết nầy không đặt mục tiêu tìm hiểu cách giải thích ấy đúng hay sai mà chủ yếu quan tâm đến nội dung của các câu chuyện kể. Cách giải thích nguồn gốc địa danh trong những truyện kể nói chung dĩ nhiên mang đậm tính chủ quan, cảm tính của người kể chuyện. Ý thức tôn vinh lịch sử và cảm hứng thế sự là ở đây. Như vậy, chúng tôi không làm công việc “giải mã” địa danh (nghĩa là không theo hướng “từ nguyên học”) mà là “giải mã” những yếu tố giải thích địa danh, tức câu chuyện kể.
1.Ý thức lịch sử trong truyện và giai thoại địa danh Cần Thơ.
Tâm lý chung của nhân loại từ xưa đến nay là tâm lý muốn giải thích nguồn gốc tên gọi của các sự vật tự nhiên chung quanh và tên riêng chỉ địa điểm nơi mình sinh sống. Tâm lý nầy càng thể hiện rõ hơn đối với người Việt, những cư dân nông nghiệp sống gắn bó với tự nhiên. Do vậy, truyện địa danh phổ biến trên mọi miền đất nước: Sự tích Hồ Gươm (Bắc bộ), sự tích núi Ngũ Hành (Trung bộ), sự tích cù lao Ông Hổ (Nam bộ)…Tác giả dân gian Cần Thơ cũng không ngoại lệ. Bước đầu chúng tôi đã tập hợp được một số truyện kể và “lời giải thích” (chưa thể gọi là truyện) của người bình dân về nguồn gốc địa danh. Đó là những câu trả lời cho câu hỏi vì sao gọi là bến Ninh Kiều, rạch (chợ) Tham Tướng, Đầu Sấu, Cái Da, Mương Củi… Những truyện kể và “lời giải thích” nầy rõ ràng đã thể hiện sự quan tâm, tấm lòng của người bình dân đối với quê hương như tình cảm của họ đã từng gởi gấm trong ca dao.
Tình yêu quê hương bao giờ cũng gắn với ý thức lịch sử, đặc biệt là ý thức tôn vinh lịch sử. Không phải bất cứ sự kiện lịch sử nào cũng được móc nối vào truyện địa danh mà thường là những sự kiện có ảnh hưởng nhất định đối với nhân dân một địa phương hoặc cả nước. Người ta gọi con rạch là rạch Tham Tướng để nhắc nhớ đến vị Tham tướng họ Mạc trung nghĩa.
Như trên đã đề cập, chung quanh tên gọi “Cần Thơ” hiện tồn tại một cách giải thích của các nhà ngữ học (gắn với từ nguyên “kìn tho”) và một cách giải thích của dân gian cho rằng đây là nơi có nhiều rau cần rau thơm, gắn với câu ca:
“Rau cần rau thơm xanh muớt,
Mua mau kẻo hết, chậm bước không còn”
“Rau cần lại với rau thơm,
Phải chăng đất ấy rau thơm có nhiều”
Chúng tôi muốn bàn đến một giai thoại quen thuộc khác về địa danh độc đáo nầy.Tương truyền trong thời kỳ lẩn tránh Tây Sơn, chúa Nguyễn Ánh đã từng đi thuyền trên dòng sông Hậu…Một đêm yên ả ông được nghe tiếng ngâm thơ, tiếng đàn hát từ xa vọng lại rồi nảy ra ý nghĩ ban cho con sông một cái tên, đó là “Cầm Thi giang”. Dần dần dân chúng đọc trại “Cầm Thi” thành “Cần Thơ” (Tóm tắt giai thoại dựa theo bản kể của Huỳnh Minh) (1). Giai thoại nầy nêu lên sự kiện “ tẩu quốc” của Nguyễn Ánh trong lòng một biến cố lịch sử trọng đại, đó là cuộc đối đầu giữa phong trào Tây Sơn với chúa Nguyễn. Điều quan trọng hơn, dường như tác giả dân gian đã dành cho người anh hùng trong thời kỳ thất thế một tình cảm đặc biệt. Bởi vì họ đã lưu giữ trong lòng một niềm tin, rằng tên gọi của vùng đất quê hương gắn với những thăng trầm của một nhân vật được nhân dân tin là có “chơn mạng đế vương”.
Giai thoại về địa danh Bình Thuỷ cũng tràn đầy cảm hứng lịch sử. Tương truyền, năm Nhâm tý 1852 Tuần phủ Huỳnh Mẫn Đạt trong một lần đi tuần thú bằng thuyền trên sông Hậu gặp sóng to gió lớn bất ngờ nổi lên. Ngay lúc đó viên quan hầu cận nhìn thấy một vàm rạch rồi khẽ bẩm với quan Tuần phủ, cho quân chèo thuyền vào đó, qua được cơn thịnh nộ của thuỷ thần. Quan Tuần phủ cho neo thuyền lại, gọi dân làng đến gạn hỏi mới biết rằng, con rạch nầy từ trước tới giờ chưa từng có sóng to gió lớn, người dân trong vùng sống an cư lạc nghiệp, hoa màu tươi tốt quanh năm. Quan Tuần phủ tuyên bố: “Nay ta nhờ theo dòng nước đến đây mà được bình an vô sự. Vậy ta đặt tên cho chỗ nầy là Bình Thuỷ”. Tên làng Bình Thuỷ có từ đó và còn lưu giữ đến ngày nay. (Tóm tắt giai thoại dựa theo bản kể của Huỳnh Minh) (2).
Cùng với khát vọng về một cuộc sống an bình, thịnh vượng giai thoại trên còn tái tạo một nhân vật có thật- Huỳnh Mẫn Đạt.Tuy không được nhắc đến nhiều như Bùi Hữu Nghĩa, Phan Văn Trị…song, ông vẫn là người được ca ngợi. Chính điều nầy thể hiện ý thức tôn vinh lịch sử của nhân dân.
Trong ý thức lịch sử ấy, công cuộc khai hoang xứ Cần Thơ đã in lại dấu ấn trong một số truyện. Truyện Sự tích miễu Ông khá tiêu biểu vì có một nét riêng so với nhóm truyện về cọp ở Nam bộ. Truyện về cọp ở vùng đất mới nầy thường có nội dung kể về mối liên hệ giữa người và cọp qua những hành động cụ thể: Cọp là đứa con nuôi hiếu thảo trong nhà (Nghĩa hổ, Sự tích cù lao Ông Hổ), cọp nhờ người giúp đỡ khi sinh nở (Bà mụ cọp), cọp được cử làm hương cả trong làng (Ông cả cọp), cọp đấu võ và giết người (Sự tích rạch Mồ Thị Cư), người giết cọp (Giết cọp ở Giồng Găng, Giết hổ cứu bạn). Riêng trong truyện Sự tích miễu Ông (dựa theo bản kể của Đặng Hoàng Thám) (3) con người đã đấu không lại cọp (cọp rằn bắt người làng chòi ăn thịt) nhưng sau đó tai hoạ qua đi vì hai cọp đấu nhau cho đến chết (cọp rằn và cọp trắng vật nhau từ đêm trước đến ngày hôm sau cho đến kiệt sức. Người “vô tình” chứng kiến cảnh hổ đấu bị kẹt trên chòi cao). Dân làng lập miễu thờ vì tin rằng đây là hai tướng nhà trời bị đày xuống thế gian. Miễu Ông hiện nay vẫn còn và có thêm chợ Miễu Ông. Việc thờ hai “ông hổ” có thể là bóng dáng xa xôi của tín ngưỡng sùng bái loài vật thời cổ. Nhưng người ta không đơn thuần thờ hai con hổ mà là thờ hai “ông hổ”, dường như đó là thờ cái khí phách kiên cường, thờ tinh thần chiến đấu dũng mãnh (thờ vì ngưỡng mộ). Dĩ nhiên nội dung truyện kể còn phản ánh hiện thực gian khó của thời kỳ đầu khai hoang. Với truyện nầy, cảm hứng lịch sử đã chuyển dần sang cảm hứng thế sự.
2.Cảm hứng thế sự trong truyện và giai thoại địa danh Cần Thơ
Trong những truyện địa danh sưu tầm được ở Cần Thơ, truyện Cá sấu xem hát bội là một truyện hay. Trong chừng mực nào đó cũng có thể đặt tên cho truyện nầy là Sự tích địa danh Đầu Sấu, Cái Da, Cái Răng.. Cuộc đấu tranh chinh phục tự nhiên lồng vào đời sống sinh hoạt của người Cần Thơ thời mở cõi, đồng thời nó cũng phản ánh bi kịch trong tình yêu và hôn nhân. Đây là thứ bi kịch rất riêng khác hẳn với bi kịch hôn nhân trong Sự tích Đá vọng phu…mà chúng ta từng biết. Truyện kể rằng, ngày xưa ở vàm sông Cần Thơ có một con sấu to bằng chiếc xuồng ba lá dài năm sáu thước, hung dữ mà lại thích xem hát bội…Năm nọ, con sấu đã tấn công đoàn xuồng ghe đám cưới làm cô dâu mất tích. Chú rể trả hận bằng cách tổ chức hát bội dụ sấu vào sâu trong rạch, nhờ trai làng đắp đập ngoài vàm nhốt nó lại rồi giết chết. Con sấu hung dữ bị xả thịt, “chỗ cái đầu trôi đến là rạch Đầu Sấu, chỗ bộ da trôi đến là rạch Cái Da, chỗ bộ răng trôi đến nay là chợ Cái Răng”. Sau đó chàng trai ra đi biệt xứ. (Tóm tắt truyện dựa theo bản kể của Ngọc Anh) (4). Chúng ta đã từng nghe kể khá nhiều truyện về sấu ở Nam bộ nói chung ở đồng bằng sông Cửu Long nói riêng như Bị sấu đớp mà thoát được, Sấu năm chèo…Nhóm truyện nầy cùng với truyện về những con cọp kỳ lạ, về cặp cá vồ cờ khổng lồ, những con rắn hung dữ… giúp người đọc ngày hôm nay hình dung ra một vùng đất giàu có sản vật nhưng hoang sơ “dưới sông sấu lội trên rừng cọp um”. Thế mới thấy được một phần công lao của tiền nhân vào buổi đầu khai phá. Nói đất phương Nam là đất “làm chơi ăn thiệt” thì chỉ nhìn ở góc độ thiên nhiên nơi đây ưu đãi con người. Góc độ thứ hai quan trọng hơn là thiên nhiên cũng tạo ra vô vàn thử thách đối với lưu dân. Câu chuyện Sự tích địa danh Đầu Sấu, Cái Da, Cái Răng vừa nêu trên phản ánh khía cạnh thứ hai. Con người buộc phải đối mặt với thú dữ là một thực tế. Hơn thế con người phải ứng xử với chúng theo nhiều cách trong nhiều hoàn cảnh và thái độ khác nhau. Nếu như trong Sấu năm chèo, sấu từng là con vật nuôi, trong Bị sấu đớp mà thoát được, sấu là sát thủ nguy hiểm thì trong truyện trên nó vừa là hung thủ giết người, là kẻ gieo tai họa cho cộng đồng, đặc biệt là nó đã phá tan mầm hạnh phúc vừa chớm nở. Sấu “mê hát bội” nhưng sấu lại giết người. Dường như hình tượng sấu ở đây là sự khái quát hoá của một sức mạnh không còn đơn thuần là của tự nhiên. Liệu có nên đặt câu hỏi “vì sao chàng trai ra đi biệt xứ ” ở cuối tác phẩm hay không ? Một kết cục đầy tâm sự, nhấn mạnh cảm hứng thế sự của tác giả dân gian. Do vậy đây không đơn thuần là câu chuyện về con sấu kỳ lạ mà còn là chuyện về bi kịch hôn nhân của chàng trai thời mở đất. Mở rộng ra, những Đầu Sấu, Cái Da, Cái Răng của Cần Thơ giàu đẹp hôm nay đã từng chất chứa bao nỗi niềm của những chàng trai thuở ấy.
Về mặt thể loại, truyện địa danh có thể là thần thoại, truyền thuyết hoặc cổ tích. Ở Cần Thơ chúng tôi chưa tìm thấy thần thoại giải thích địa danh. Điều nầy phù hợp với lý luận về tiến trình hình thành và phát triển văn học dân gian, khi mà điều kiện nảy sinh thần thoại –loại hình nghệ thuật “một ra đi không trở lại”- đã qua đi từ lâu. Hai giai thoạị gắn với hai nhân vật lịch sử Nguyễn Ánh và Huỳnh Mẫn Đạt đều có tính xác thực cao vì nó tái tạo hai nhân vật có thực, sự kiện trong giai thoại gắn chặt với sự thực lịch sử và không có yếu tố kỳ ảo. Hai truyện còn lại mang phong vị của truyện cổ tích sinh hoạt. Truyện có yếu tố khác thường (sấu mê hát bội, con người với phương tiện thô sơ đắp được đập ngăn sông) và yếu tố thần kỳ rất mờ nhạt. Chi tiết “hai ông hổ báo mộng cho dân làng biết mình là tướng nhà trời bị đày” không có vai trò quan trọng đối với cốt truyện mà chỉ nhằm nhấn mạnh một khía cạnh tư tưởng: cái ác cuối cùng đã bị đẩy lùi, thái độ phục thiện là đáng trân trọng. Như vậy, hơi thở cuộc sống hiện thực khá đậm đặc có thể xem là một đặc điểm của các truyện và giai thoại vừa khảo sát.
Hiện tại số lượng truyện và giai thoại địa danh sưu tầm tại Cần Thơ chưa nhiều để có thể rút ra những kết luận về đặc điểm nội dung và thi pháp của nhóm truyện nầy. Bước đầu chúng ta có thể cảm nhận được ý thức lịch sử và cảm hứng thế sự trong các tác phẩm hiện có.
3. Có thể hình dung ra một bước phát triển từ “lời giải thích” đến truyện dân gian về nguồn gốc địa danh.
Có những địa danh chỉ tìm được một cách giải thích. Chẳng hạn, tên gọi Mương Củi (thuộc xã Nhơn Ái, huyện Phong Điền) được giải thích như sau: con muơng tự nhiên do ngày xưa voi đi quật chết cây thành ra có nhiều củi. Có những địa danh có hai cách giải thích thậm chí là ba như Cần Thơ . Địa danh Xà No có hai cách giải thích như sau: Cách thứ nhất cho rằng Xà No là con rắn no. Tương truyền, người xưa đã nhìn thấy con mãng xà vì nuốt con nai nên mắc nghẹn nghĩa là quá “no”. Dưới cái nhìn của các nhà ngôn ngữ học thì cách giải thích nầy không ổn, vì yếu tố “xà”(từ Hán Việt) kết hợp với yếu tố “no” (thuần Việt). Tuy nhiên vì nó đã từng tồn tại nên chúng tôi ghi nhận, và việc đúng sai sẽ bàn sau. Chúng ta không loại trừ trường hợp còn những điều người xưa “chưa kể” nên người đời sau “chưa hiểu”. Cách giải thích thứ hai cho rằng Xà No, có nguồn gốc từ tiếng Khmer, nghĩa là “điên điển”, ý nói vùng Xà No ngày xưa rất nhiều cây điên điển (bông điên điển chế biến được nhiều món và ăn rất ngon). Cách giải thích thứ hai nầy có vẻ như “bác học” hơn. Điều có thể nói ở đây là, cách giải thích địa danh Mương Củi và Xà No nêu trên đã có những chi tiết mang “tính tự sự” nhưng chúng không chuyển hóa thành truyện được. Tiến thêm một bước, Sự tích địa danh Đầu Sấu, Cái Da, Cái Răng là truyện cổ tích sinh hoạt hẳn hoi, với các chi tiết khác thường (một đặc trưng của truyện cổ tích nói chung).Trên cái nền hiện thực tác giả dân gian đã hư cấu để câu chuyện trở nên lung linh. Đi qua thế giới nghệ thuât lunh linh ấy ta bắt gặp một cái nhìn xác thực mà thấm đẫm tình người.




________________________________
Chú thích:
(1), (2): Huỳnh Minh, (2001), Cần Thơ xưa, Nxb Thanh Niên
(3): Nhiều tác giả, (2005), Bước đầu tìm hiểu văn hoá dân gian Bình Thuỷ-Long Tuyền, Nxb Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh
(4):Ngọc Anh, (2000), Báo Cần Thơ xuân.

Thứ Năm, 19 tháng 2, 2009

THƠ NGUYỄN TRUNG NGUYÊN


CÔ EM HÀNG NƯỚC


Cô em hàng nước chiều tóc xõa
Lúng liếng môi cười áo tím hoa
Ta ghé lại đây tìm bóng mát
Nhọc nhằn rũ bớt bụi đường xa

Có phải quê em vùng châu thổ
Hương đất, hương vườn, hương tóc bay
Thơm cả hồn ta – trai tứ xứ
Trầu cau ắt chuộng đất nơi nầy

Có phải Tơ ông xưa có thật?
Đã cột ta – em sợi chỉ hồng!
Hay tách chè xanh đà hóa rượu
Say mèm đi sẽ khó thong dong

Cô em hàng nước chiều tóc xõa
Rộn rã tiếng cười dạt bóng đêm
Vì tình Từ Hải xưa chết đứng
Vì em ta tự nguyện chết chìm

Thôi giã từ em cô hàng nước
Chẳng có cây đàn để bỏ quên
Men tình em tặng cho ta sống
Xa rồi chợt buốt cả con tim.

Thứ Bảy, 24 tháng 1, 2009

TỔNG KẾT HOẠT ĐỘNG NĂM 2008

(TS Trần Văn Nam Phân hội trưởng Phân hội VHDG phát biểu khai mạc tổng kết)
(Các hội viên nhận bằng khen của TW Hội Văn học dân gian Việt Nam)



Ngày 22 tháng 1 năm 2009 ( nhầm ngày 27 tết Kỷ Sửu 2009) Phân hội Văn học Dân gian trực thuộc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật TP. Cần Thơ đã tổ chức buổi lễ tổng kết hoạt động của phân hội trong năm vừa qua 2008 tại văn phòng Liên hiệp Hội (170 Lý Tự Trọng, TP. Cần Thơ). Tham dự buổi lễ có đông đủ hội viên Phân hội Văn học dân gian và một số khách mời. Trong diễn văn phát biểu khai mạc buổi lễ Tiến sĩ Trần Văn Nam phân hội trưởng Phân hội Văn học Dân gian đã phát biểu đánh giá một số hoạt động nổi bật của phân hội trong năm vừa qua. Nhìn chung hoạt động của phân hội Văn học dân gian khá nổi bật, ngoài hai chuyến đi thực tế, một do phân hội tổ chức đi tập thể tại Hòn Tre, còn có một đợt đi thực tế trong phạm vi địa phương theo từng tổ nhóm do phân hội hỗ trợ kinh phí (mỗi người 500 ngàn đồng) đã thu được nhiều kết quả khả quan. Đặc biệt tác phẩm tập hợp các bài vở của anh em hội viên trong năm 2008 đã nhận được giải khuyến khích của TW Hội Văn học dân gian Việt Nam. Tới đây, năm 2009 Phân hội sẽ tổ chức một chuyến đi thực tế tại miền Đông và in ấn tác phẩm chủ đề: “Các phong tục tết ở Đồng bằng Sông Cửu Long”.

Thứ Sáu, 23 tháng 1, 2009

VÈ THẾ SỰ


(hỏi cung - ảnh tư liệu xưa)



(ăn cắp bị phạt đòn - ảnh tư liệu xưa)


BÀI VÈ CỦA MÁ TÔI

* NGUYỄN TRUNG NGUYÊN

Ngay từ khi tôi còn nhỏ xíu, đã nghe má đọc mấy câu vè này rồi. Nhất là những lúc nhà thắt ngặt, thiếu thốn thì hai câu: “Bạc không cánh bay đâu chẳng biết. Vàng không chân mấy chiếc cũng không còn…” lại được má tôi lập đi, lập lại khiến mấy anh em tôi thuộc lòng từ hồi nào chẳng biết. Sau này, lớn lên chút đỉnh có lần tôi hỏi: “Sao má đọc mấy câu đó hoài vậy? Hoàn cảnh nhà mình bây giờ cũng đỡ rồi mà”. – “Tại con hổng biết, chớ đây là bài vè kinh tế mà má thuộc lòng từ hồi nhỏ…”. Thấy lạ lạ tôi đã nhờ má đọc cho tôi chép lại cả bài, có thể không chính xác từng chữ nhưng với một bà lão trên 70 tuổi, việc đọc thuộc lòng cả 94 câu của bài vè là đã quá tốt rồi dù cũng phải cả một tuần lễ mới xong. Qua sự việc này tôi chợt nhận ra một điều đó là sức sống mảnh liệt cũng như ảnh hường sâu rộng của “vè”, một loại hình văn học dân gian rất phổ biến ở nông thôn Việt Nam xưa.



Vè Kinh tế

Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè kinh tế
Ngồi suy nghĩ xem trong cuộc thế
Thấy nhân dân kinh tế mà thương
Chẳng qua là Nam Việt vô Vương thảm thiết
Bạc không cánh bay đâu chẳng biết
Vàng không chân mấy chiếc cũng không còn
Mấy năm sau lại hao mòn
Mùa màng thất bát lính còn bắt buột
Thương hại cho lê dân đứt ruột
Đã lâm nguy lại gặp thêm cảnh ngặt nghèo
Thảm cho vợ con đói rách đùm đeo
Trốn bờ bụi mã tà còn kiếm bắt
Có gan đồng dạ sắt
Cũng rơi nước mắt một khi
Sách có chữ “Thố tử Hồ bi”
Vật còn biết thương vật
Huống chi người chẳng tưởng

Đại Pháp cầm quyền chấp trưởng
Tưởng đâu Nam kỳ
Vui hưởng thái bình
Một lần bão lụt năm Thìn
Đã hao tốn xứ mình vô hạn
Mùa màng thất bát
Giá lúa đồng sáu, đồng ba
Một đầu thuế tính ra là năm giạ
Qua năm Tuất điềm trời cũng lạ
Giá lúa sụt một giạ còn hai cắc ngoài
Biết làm sao đóng nổi lá bài
Đi làm mướn tối ngày có một cắc mấy

Mấy năm trước cũng nhờ lúa mắc
Lại bán đắt mua may
Hà cờ gì cho đến năm nay
Đồ vật thực rẻ thôi vô số
Chệt bán buôn bỏ phố trốn về Tàu
Ghé mà coi mấy cậu nhà giàu
Ngó bảnh bao mà anh nào cũng mua chịu

Lập bộ đất cắn răng mà chịu
Lỡ chân rồi khó liệu, khó lo
Dòm nhà nào cũng bữa đói, bữa no
Nhổ bông súng, móc củ co cũng còn dễ thở
Lúc túng cùng bán xài cũng đỡ
Khỏi lo thiếu nợ, thiếu nần
Sách có chữ “tiểu phú do cần”
Lại có chữ “thanh bần vô hại”
Dĩa dưa, dĩa muối
Đạm bạc cơ hàn
Xịch xạc lều tranh
Mặc ai đục cò trục lợi kinh doanh
Tham cho thái quá
Đi ngang về tắt

Chuyện thời thế, thế thời
Càng ngày càng gắt
Đường vinh nhục đổi thay một lát
Trời lại khiến cho nhân dân đói khát
Bảy ngày đầu năm tiếng pháo vắng teo
Ba mươi tết chẳng thấy ai mần heo cúng kiến
Lại có ít người đến viếng ông bà
Giấy áo quần, vàng bạc, nhang trà
Tiền đâu có mà lo đơm oải
Nhớ hồi nẵm tiền còn rộng rãi
Giàu thì nhiễu nho
Nghèo cũng bô vải cho vợ con
Nay gạo đong từ lon, từ lít
Vui sướng gì mà sắm món ngon vật lạ
Nhiều người lệ hạ tuôn rơi

Một năm trời bảy bữa ăn chơi
Cũng không đặng thảnh thơi, thong thả
Chồng mang lưới
Vợ mang chài
Con quần vá
Áo còn bâu
Quần còn lưng
Cũng ráng lo cuốc bẫm cày sâu làm rẫy bái
Than ôi!
Khoai không củ
Cải đỏ nghen còi cọc mọc ngồng
Phải tưới nước vun phân
Trăm bề vất vả
Công cấy, công cày
Lúa nở bụi bắp chân
Ai ai cũng vui cười hớn hở
Có ngờ đâu tiết trời tráo trở
Nước 30 tháng 9 hết chừng
Đi trên bờ lộ phải xăn quần tới háng
Chòi trại ngập sàng trôi ván mất tăm
Ngó ra đồng ra ruộng tợ biển đông
Tội nghiệp kẻ canh nông
Tấm lòng héo hắt

Trong làng tổng người người xốn mắt
Bọn Hội tề, quan Chánh lớn
Động lòng chắc lưỡi lắc đầu
Thế này qua năm tới lúa đâu mà nộp

Nhà nước hết lòng bảo hộ nhân dân!

(Ghi lại theo trí nhớ của bà Nguyễn Thị Ảnh, sinh năm 1931, hiện ngụ tại P. Trường Lạc, Q. Ô Môn, TP. Cần Thơ)

Má tôi còn nói bài vè này của ông Năm Của người làng Rạch Cam, Long Tuyền được truyền miệng rộng rải vào khoảng thập niên 30 thế kỷ trước tại làng Tân Thới, Phong Phú, Phong Dinh. Đọc kỹ lại bài vè và nghiên cứu thêm tài liệu tôi có được một số hiểu biết cũng không kém phần thú vị.
Trong Ðại Nam quốc âm tự vị, vè là chuyện khen chê có ca vần và việc sáng tác vè nói nôm na là đặt chuyện khen chê có ca vần. Ðịnh nghĩa này còn đơn giản, nhưng đã nêu được những đặc trưng cơ bản của vè. Nó chính là thể loại tự sự dân gian bằng văn vần, chủ yếu nhằm phản ánh kịp thời và cụ thể những chuyện về người thật, việc thật ở từng địa phương, những sự kiện có ý nghĩa trong đời sống nhân dân.
Vè có từ bao giờ? Chưa có cơ sở xác định nhưng người ta biết rằng vè nảy sinh chủ yếu trong thời kỳ phong kiến và phát triển nhất trong thời kỳ cận đại ở các thế kỷ XVIII, XIX, XX. Sự xuất hiện của vè là một bước tiến mới của văn tự sự dân gian. Vè xuất hiện để bổ sung cho lối kể truyện bằng văn xuôi một cách thể hiện mới có vần có nhịp, qua đó biểu hiện nội dung các vấn đề xã hội mà nhân dân muốn nêu lên.
Xã hội Việt Nam vào những năm 1936-1939, đa số nông dân không có ruộng đất, hoặc có ít ruộng, họ phải đi lãnh đất của địa chủ để cày cấy, hoặc đi làm thuê làm mướn. Đã khốn khổ về kinh tế, vật chất thiếu thốn lại còn bị nạn thiên tai bão lụt, dịch bệnh liên tiếp xảy ra. Năm 1937, nạn đói xảy ra ở khắp miền Bắc. Năm 1938 nạn đói xảy ra ở khắp ba miền ngay cả ở miền Nam như các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau, Rạch Giá, Cần Thơ, Châu Đốc, Long Xuyên người dân cũng bị đói khổ. Có thể bài “Vè kinh tế” nói trên xuất hiện vào khoảng thời điểm này, căn cứ vào nội dung mà bài vè truyền tải ta có thể xếp bài vè này vào nhóm “vè thế sự”.
Vè thế sự ghi nhận thực trạng đời sống nhân dân. Trong đó loại vè thế sự có giá trị hiện thực hơn cả là những bài đả kích ách thống trị của bọn thực dân, phong kiến. Từ những sự kiện cụ thể trong đời sống sinh hoạt, nhân dân bài vè đã cho người nghe thấy được những nguyên nhân xã hội dẫn đến cuộc sống khốn cùng. Nhìn chung, vè thế sự miêu tả rất sinh động cuộc sống nhân dân, phản ánh hiện thực xã hội nước ta dưới ách thống trị thực dân phong kiến.
Quay lại bài “Vè kinh tế” trong phần mở đầu:
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè kinh tế
Ngồi suy nghĩ xem trong cuộc thế
Thấy nhân dân kinh tế mà thương
Chẳng qua là Nam Việt vô Vương thảm thiết
Bài vè đã đi thẳng vào vấn đề, Nam bộ đã không còn “chủ quyền” mà nằm dưới quyền sinh sát của người Pháp. Điều này càng được khẳng định hơn ở các đoạn sau:
Đại Pháp cầm quyền chấp trưởng
Tưởng đâu Nam kỳ
Vui hưởng thái bình…
Để rồi kết thúc bằng cái nhìn hết sức chua chát và châm biếm sâu sắt:

Trong làng tổng người người xốn mắt
Bọn Hội tề, quan Chánh lớn
Động lòng chắc lưởi lắc đầu
Thế này qua năm tới lúa đâu mà nộp

Nhà nước hết lòng bảo hộ nhân dân!
Có những chi tiết trong bài “Vè kinh tế” mà khi đọc nó lại làm tôi liên tưởng đến một số tác phẩm văn học miêu tả bối cảnh xã hội lúc bấy giờ mà nhà văn Hồ Biểu Chánh là gương mặt tiêu biểu.

Mùa màng thất bát lính còn bắt buột
Thương hại cho lê dân đứt ruột
Đã lâm nguy lại gặp thêm cảnh ngặt nghèo
Thảm cho vợ con đói rách đùm đeo
Trốn bờ bụi mã tà còn kiếm bắt…
Phải chăng đây chính bức tranh tăm tối của kẻ cùng đinh mạt hạng Lê Văn Đó trong tác phẩm (Ngọn cỏ gió đùa), nghèo đến mức phải ăn trộm nồi cháo heo để cứu đói mẹ già và đàn cháu nhỏ, trải qua tù tội khổ ải.
Còn ở hai câu:
Dòm nhà nào cũng bữa đói, bữa no
Nhổ bông súng, móc củ co cũng còn dễ thở
Cũng đâu khác gì:
“cả nhà phải luộc rau cỏ mà ăn đỡ, chớ không có cháo mà ăn” (Ngọn cỏ gió đùa, trang 16). Cái đói đã làm tắt hẳn nụ cười hồn nhiên trên những gương mặt thơ ngây, lưu lại dấu tích thê thảm: “sắp nhỏ nhịn đói mặt mày vàng ẻo “( Ngọn cỏ gió đùa, trang 16).

Tác giả bài “Vè kinh tế”, một nghệ sĩ dân gian đã không bỏ qua chi tiết nào từ những cái rất chung, rất tiêu biểu đến những cái rất cụ thể mà hết sức chân thật như:
Một lần bão lụt năm Thìn
Đã hao tốn xứ mình vô hạn
Mùa màng thất bát
Giá lúa đồng sáu, đồng ba
Một đầu thuế tính ra là năm giạ
Qua năm Tuất điềm trời cũng lạ
Giá lúa sụt một giạ còn hai cắc ngoài
Biết làm sao đóng nổi lá bài
Đi làm mướn tối ngày có một cắc mấy…
Hay:
Chệt bán buôn bỏ phố trốn về Tàu…
Chính là đề cập đến chủ trương sử dụng lá bài Hoa kiều của Nhà nước Pháp quốc lúc bấy giờ vì tư bản Hoa kiều là những kẻ có đủ sức mua những hàng hóa của Pháp để bán lại ở Việt Nam.
Hoặc:
Lập bộ đất cắn răng mà chịu
Lỡ chân rồi khó liệu, khó lo
Dòm nhà nào cũng bữa đói, bữa no
Nhổ bông súng, móc củ co cũng còn dễ thở…

Chính là cách làm bần cùng hóa nông dân của nhà nước bảo hộ khiến họ phải bán ruộng đất cho địa chủ với giá rẻ.
Nhìn chung, mỗi bài vè có giá trị nghệ thuật khá độc đáo riêng của nó. Phần lớn các bài vè có vận mệnh ngắn ngủi, thời gian cần thiết để đạt tới một hình thức hoàn chỉnh, trau chuốt ít có được. Thế nhưng, bài “Vè kinh tế” này đã sống gần một thế kỷ dù có thể chỉ một mình má tôi nhớ đến nó. Xin cám ơn má đã cho con hiểu thêm giá trị của một loại hình văn học dân gian cũng như một lần nhìn lại bức tranh ảm đạm của nhân dân ta dưới ách thống trị trong thời kỳ Pháp thuộc.


Thứ Tư, 21 tháng 1, 2009

CHÙA HOA Ở CẦN THƠ

(Chợ nổi Cái Răng - content.cantho.gov.vn)


(Bến Ninh Kiều ngày xưa - forum.ctu.edu.vn)



II. TRẤN GIANG SAU NHỮNG LẦN DIÊN CÁCH
VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÙNG ĐẤT CẦN THƠ
TRẦN PHỎNG DIỀU

Tình trạng hoang vu của vùng đất Trấn Giang có thể lý giải ở hai nguyên nhân sau: Thứ nhất: Trong suốt thời gian dài, các đời chúa Nguyễn và cho mãi đến sau này người Pháp đến xâm lược, vùng Trấn Giang lúc bấy giờ vẫn là vùng không quan trọng. Thứ hai, cả vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói chung, Trấn Giang - Cần Thơ nói riêng, ở giai đoạn này, đất rộng người thưa, không đủ cư dân để khai phá. Hơn nữa, Trấn Giang là vùng đất khai phá có phần muộn màng hơn các vùng khác ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, nên tình trạng hoang vu kéo dài là một điều dễ hiểu. “Thời Gia Long, vùng Cần Thơ chưa có nhiều người Việt đến định cư nên cả vùng cần Thơ rộng lớn chỉ mới hình thành một số làng như làng Tân An ở khu vực rạch Cần Thơ, làng Thới An ở vùng Ô Môn, làng Thới Thuận, làng Tân Thuận Đông ở vùng Thốt Nốt, làng Bình Thủy ở khu vực rạch Bình Thủy, làng Phú Mỹ ở khu vực rạch Cái Côn, mà làng này cách làng kia hàng chục cây số, nằm trên các vùng đất gò, đất giồng. Để hình dung rõ hơn tiến độ khai thác rất chậm của vùng Cần Thơ trong một thời gian dài từ năm 1737 đến hết thời Gia Long, chúng ta cần biết thêm một điều là: Vào thời Gia Long, vùng Cần Thơ, Ô Môn, Thốt Nốt nằm trong huyện Vĩnh Định (thuộc phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh), một huyện rộng lớn bao trùm cả phía hữu ngạn Hậu Giang, suốt từ biên giới Châu Đốc chạy dài xuống đến vàm Ba Thắc biển nam Hải, nhưng vì dân thưa nên cả huyện chỉ có 37 thôn và chưa phân ra thành tổng như ở miệt trên”
[1].
Từ năm Gia Long thứ 7 (1808) đến năm Minh Mạng thứ 20 (1839), Trấn Giang đã phải mấy lần được phân định lại địa giới và đổi tên. Khi thuộc phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh (Vĩnh Long ngày nay), khi thì thuộc phủ Tân Thành, rồi phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang. Năm Gia Long thứ 12 (1813), cắt đất phân ranh lại, lập thêm huyện Vĩnh Định, vẫn trực thuộc phủ Định Viễn, là vùng phì nhiêu nhất. Đến năm Minh Mạng thứ 20 (1839), Cần Thơ lại mang tên là huyện Phong Phú, thuộc phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang, gồm 3 tổng, 31 xã, thôn. Trong giai đoạn này, Cần Thơ phát triển có phần rực rỡ. Do Cần Thơ nằm ở trung tâm vị thế giao thương của các tỉnh miền Tây, nên năm 1868, khi Pháp đã chiếm ba tỉnh miền Tây Nam kỳ thì Cần Thơ là vùng trọng điểm của chính sách đẩy mạnh khai thác nông nghiệp để phục vụ xuất khẩu, nhằm thu lợi nhuận cho Pháp. Pháp tổ chức công cuộc đào kênh quy mô lớn, tạo thành một hệ thống kênh đào dày đặc nối Cần Thơ với Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá, nhằm giúp cho Pháp có điều kiện thuận lợi mở rộng nhanh chóng công cuộc khai thác đất đai. Dưới thời Pháp thuộc, Cần Thơ lại trải qua nhiều lần chia tách.
Ngày 01 tháng giêng năm 1868, Thống đốc Nam kỳ là Bonard quyết định sáp nhập huyện Phong Phú (Trấn Giang - Cần Thơ) với Bãi Sào (Sóc Trăng) đặt thành một quận, lập tòa bố tại Sa Đéc.
Ngày 23 tháng 2 năm 1876, Soái phủ Sài Gòn ra nghị quyết, lấy huyện Phong Phú và một phần huyện An Xuyên, Tân Thành để lập nên hạt Cần Thơ (arrondissement de Can Tho) với thủ phủ là Cần Thơ. Giai đoạn này, Cần Thơ đã thể hiện rõ vai trò của mình, là điểm trung chuyển quan trọng, nắm các con đường huyết mạch từ các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long lên Sài Gòn - Chợ Lớn. “(...) Tỉnh lỵ dời về rạch Cần Thơ thì chợ Cần Thơ trở thành địa điểm trung chuyển quan trọng nắm luôn con đường thông thương thứ hai cũng nối từ Hậu Giang qua Tiền Giang đi lên Sài Gòn - Chợ Lớn”
[2].
Sau Hiệp định Genéve năm 1954, đất nước ta tạm thời bị chia cắt. Lúc này, đế quốc Mỹ nhảy vào Việt Nam thay chân Pháp, phá hoại Hiệp định Genéve, dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm làm tay sai cho Mỹ, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Từ đó, địa giới hành chính trong chế độ cũ ở miền Nam nói chung, và tỉnh Cần Thơ nói riêng có nhiều thay đổi. Năm 1956, chính quyền Ngô Đình Diệm quyết định đổi tên tỉnh Cần Thơ thành tỉnh Phong Dinh. Năm 1961, tách một vùng đất ở Long Mỹ, Vị Thanh lập thành tỉnh Chương Thiện.
Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Nam Bắc thống nhất một nhà, giang sơn thu về một mối, chính phủ ta công bố Nghị định số 03/NĐ -76, ngày 24.3.1976, sáp nhập tỉnh Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ lập thành tỉnh mới lấy tên là Hậu Giang, tỉnh lỵ là Thành phố Cần Thơ.
Đến tháng 12 năm 1991, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII trong kỳ họp thứ X đã ra Nghị quyết tách tỉnh Hậu Giang thành hai tỉnh Cần Thơ và Sóc Trăng.
Năm 2003, Nghị quyết số 21/2003 của Bộ Chính trị, Nghị quyết 22 kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XI đã chia tách tỉnh Cần Thơ thành Thành phố Cần Thơ và tỉnh Hậu Giang. Theo các Nghị quyết này, địa giới hành chính Thành phố Cần Thơ lại thay đổi. Thành phố Cần Thơ hiện nay gồm 7 quận, huyện, 67 xã, phường và thị trấn. Đó là các quận Ninh Kiều, quận Bình Thủy, quận Cái Răng, quận Ô Môn, huyện Phong Điền, huyện Cờ Đỏ, huyện Thốt Nốt, với tổng diện tích toàn thành phố là 138.959,99 ha, và dân số là 1.121.141 người
[3].
Như vậy, Cần Thơ trong tiến trình khai khẩn vùng đất Nam Bộ đã trải qua những lần chia tách và đổi tên như sau: Trấn Giang (1739), Phong Phú (1840), Cần Thơ (1876), Phong Dinh (1956), Hậu Giang (1976), Cần Thơ (1991), Thành phố Cần Thơ (2003).


[1] Huỳnh Lứa: Cần Thơ - Lịch sử và phát triển. Tạp chí Xưa và Nay, số 79B, tháng 9 - 2000.
[2] Huỳnh Lứa: Tlđd.
[3] Số liệu thống kê năm 2003 của CụcThống kê tỉnh Cần Thơ.

Thứ Ba, 20 tháng 1, 2009

CA DAO NAM BỘ

www8.ttvnol.com/uploaded2/co/que.jpg




www.baoanhdatmui.vn/.../2/dm334/6/P6-7-334-1.jpg


TỪ BA YẾU TỐ NỀN TẢNG
CỦA VĂN HÓA NAM BỘ
ĐẾN CA DAO
TS. TRẦN VĂN NAM

(Ba yếu tố nền tảng của văn hoá Nam bộ (2004), báo Văn Nghệ (Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật T.P Hồ Chí Minh), số 5-2004)

Từ đầu thế kỷ XVII, người Việt bắt đầu khai hoang vùng đất mới, vùng đất thuộc Phủ Gia Định tức Nam bộ ngày nay. Nam bộ là một vùng văn hóa với các yếu tố nền tảng sau đây.
Nam bộ trước hết là vùng "văn minh của cây lúa". Ở đây, chúng tôi không có ý đề cập đến " một phức thể văn hóa nông nghiệp " với nghĩa chặt chẽ của nhóm từ nầy mà chỉ nêu lên một vài cứ liệu khẳng định sự tồn tại và vai trò của cây lúa ở Nam bộ. Nhiều tài liệu về lịch sử, văn hóa Nam bộ đều cho rằng từ cuối thế kỷ XVIII, xứ Đàng Trong đã là một vựa lúa lớn và bắt đầu xuất khẩu gạo sang một số nước trong khu vực. Khi chiếm Nam kỳ làm thuộc địa, người Pháp đã biết phát huy lợi thế nầy, và họ đã thành công trong việc biến nơi đây thành một vùng nông nghiệp thương phẩm. Biên bản về cuộc họp ở Sài Gòn năm 1874 giữa thương nhân người Âu và người Hoa nhằm chỉnh đốn thị trường lúa gạo đã chứng minh điều nầy. Biên bản còn đề cập đến các loại gạo xuất khẩu thời kỳ đó là gạo Gò Công ( gạo tròn ), gạo Vĩnh Long ( gạo dài ) và gạo Pye - chow (theo Hoàng Trang-Hoàng Anh, Xưa & Nay 3/97). Được biết , giống lúa - gạo Nam bộ thời đó rất phong phú , trong số vài chục giống lúa có tên chữ đầu là nàng thì nàng thơm Chợ Đào ( thuộc Long An ngày nay ) nổi tiếng ngon cơm. Ca dao Nam bộ cũng đã ghi nhận một giống lúa trong nhóm nầy: " Cám ơn hạt lúa nàng co , nợ nần trả hết lại no trong lòng "
Nam bộ là nơi phát sinh nền "văn minh miệt vườn ": "Ông kỳ lão già trên bảy mươi tuổi, nếu sanh trưởng ở Cái Bè, ở Tam Bình, ở Sa Đéc thì đã là một pho tượng " văn minh miệt vườn " bằng xương bằng thịt " (theo Sơn Nam- Văn minh miệt vườn). Vườn ở Nam bộ xuất hiện sớm và phát triển nhanh, qui mô rộng lớn và thường trồng cây chuyên canh: bưởi Biên Hòa ( miền Đông Nam bộ ), xoài Cao Lãnh ( miền Tây Nam bộ )... Công việc làm vườn có những công đoạn , những kỹ thuật canh tác mà kinh nghiệm của người làm ruộng không đủ đáp ứng yêu cầu sản xuất . Hơn nữa, việc trồng cây ăn trái trên vùng đất trũng là một thách thức buộc phải vượt qua để tồn tại. Chẳng hạn, đó kỹ thuật khai mương lên liếp vừa để chống úng vừa để có nước tưới cây quanh năm. Khi vét mương, thì bùn ( do phù sa lắng đọng ) là phân bón cây rất tốt. Bên cạnh đó, kỹ thuật ươm cây, ghép và chiết cành ảnh hưởng quan trọng đến năng suất... Công việc ở vườn quanh năm nhưng không bị thời vụ thúc bách như việc trồng lúa mùa. Do vậy nhịp sống có vẻ như ngưng đọng trong mỗi con người. Việc tiêu thụ trái cây, nghề ươm bán con giống chuyên nghiệp, mua phân bón, gạo từ các vùng khác... là một trong những biểu hiện của nền kinh tế hàng hóa đã sớm hình thành. Nền kinh tế hàng hóa trong một chừng mực nào đó đã sớm giải phóng con người thoát khỏi nền kinh tế tự cấp tự túc, mặt khác, có tác dụng đẩy mạnh quá trình giao lưu văn hóa. Thực tế đã chứng minh, miệt vườn thường gợi lên ý niệm về một đời sống yên bình, nhàn hạ và sung túc.Vườn là thứ tài sản bảo đảm cho cuộc sống hạnh phúc trong tương lai của đôi vợ chồng trẻ. Do vậy vườn là thứ sính lễ của chàng trai thực lòng yêu thương cô gái:
Chuồn chuồn bay thấp nước ngập ruộng vườn.
Nghe lời nói lại càng thương,
Thương em anh muốn lập vườn cưới em.
Nam bộ là vùng " văn minh kênh rạch ". Trên các vùng lãnh thổ Việt Nam , Nam bộ mà đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long nhiều sông rạch hơn cả. Văn hóa Nam bộ chịu sự tác động của môi trường sông nước nầy. Môi trường sông nước là nhân tố khá quan trọng tác động đến phong tục, tập quán, nhận thức, sinh hoạt gia đình, sinh hoạt lao động... nói chung là tác động đến nhiều khía cạnh văn hóa khác nhau của cư dân. Chẳng hạn, đám cưới ở đồng bằng sông Cửu Long thường đưa dâu bằng ghe:
Đưa dâu thì đưa bằng ghe,
Chớ đưa bằng bè ướt áo dâu đi.
Do có nhiều dòng chảy nên giao thông đường thủy cực kỳ quan trọng đối với cư dân thời kỳ đầu khai hoang trải qua mấy thế kỷ cho tới ngày nay. Tiếp theo là sinh hoạt đời sống trên sông nước gắn với ghe, xuồng : ghe làm nhà ở, ghe đưa đò, xuồng câu...
Có thể đặt ra câu hỏi, tại sao ở Nam bộ lại tồn tại một nền văn hóa sông nước
với những biểu hiện phong phú đa dạng hơn Bắc bộ trong khi Bắc bộ cũng có hệ thống sông ngòi không phải là ít. Nhiều người thường nêu nguyên nhân của nền văn hóa sông nước bằng thực tế địa lý. Đó là Nam bộ có hệ thống sông ngòi, kênh rạch dày đặc. Điều nầy đúng nhưng chưa đủ. Về mặt thủy học, sông ngòi Nam bộ theo chế độ bán nhật triều, nghĩa là trong một ngày (24 giờ) có hai lượt con nước lớn ròng. Ví dụ, từ 6 giờ sáng, nước sông, kinh, rạch bắt đầu lớn (nước dâng lên) đến 12 giờ thì nước lớn đến đỉnh điểm (nước đầy). Khi đã đầy rồi nước bắt đầu ròng (nước xuống), nước xuống tới đỉnh điểm gọi là ròng sát (khoảng 6 giờ chiều). Như vậy, từ 6.30 giờ chiều nước bắt đầu lên trở lại và chu kỳ sau thường trễ hơn chu kỳ trước 30 phút. Khi nước lớn thì dòng nước chảy theo chiều ngược lại của nước ròng. Qui luật nầy hết sức quan trọng, ảnh hưởng đến sinh hoạt vùng sông nước và ảnh hưởng tới kinh tế người dân. Người dân sẽ đi lại, vận chuyển hàng hóa theo con nước, chẳng hạn, khi đi nước lớn khi về nước ròng thì cả hai lượt đều đi nước xuôi cho nên việc chèo xuồng ghe không quá nặng nhọc như cư dân Bắc bộ. Chẳng hạn, nước sông Hồng, sông Đà chảy xiết khi đi xuôi nước cũng không phải dễ dàng (như Nguyễn Tuân nói trong Người lái đò sông Đà) khi đi ngược nước thì quá vất vả, nặng nhọc. Ỏ Nam bộ, nơi trao đổi hàng hóa, nơi họp chợ thường là những nơi giáp nước. Hai con kinh cùng đổ nước vào con kinh thứ ba ở hai đầu mỗi độ nước lớn, khi hai dòng chảy nầy gặp nhau thì nước không chảy được nữa. Chỗ gặp nhau đó gọi là chỗ giáp nước. Cư dân khi đi ngang qua con kinh nầy thường dừng lại chỗ giáp nước để chờ nước xuôi (nước đổi chiều ở cả hai nguồn) rồi mới đi tiếp lộ trình, hoặc đi trở về. Mấy đặc điểm nêu trên cho thấy, khi nắm được qui luật vận hành của dòng nuớc thì việc dùng các phương tiện giao thông thủy là hết sức tiện lợi. Thêm vào đó, thời kỳ đầu khai hoang các dòng chảy tự nhiên có sẵn trong khi đường bộ thì không thể làm ngay được. Nền văn hóa sông nước, do vậy, hình thành và phát triển vững chắc ở Nam bộ.
Những đặc điểm văn hóa nêu trên có ảnh hưởng đến văn hóa dân gian nói chung , văn học dân gian Nam bộ nói riêng . Truyện địa danh , truyện về sấu , truyện về cọp , truyện Ba Phi phản ánh khá rõ nét đất nước và con người Nam bộ , mặt khác là biểu hiện sinh động của sự tác động của môi trường địa lý , xã hội , văn hóa vào văn học dân gian . Ca dao - dân ca với những điệu hò trên sông nước , những điệu lý chứa đầy những hình ảnh sông nước , miệt vườn , phản ánh cảnh hoang vu của vùng đất mới cùng với hình ảnh người đi khai hoang . Cũng có thể tìm thấy tính cách Nam bộ trong bộ phận văn học dân gian nầy . Nam bộ thật sự là một vùng văn học dân gian , một nét riêng trong sự thống nhất mà đa dạng của văn học dân gian cả nước .
Về đại thể văn hóa Nam bộ có hai đặc điểm đáng chú ý , đó là những yếu tố văn hóa mới so với văn hóa truyền thống và sự hỗn dung văn hóa.
Về đặc điểm thứ nhất , trong quá trình ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội những yếu tố văn hóa mới hình thành như là sự tiếp nối cái cũ trong điều kiện mới. Xin nêu vài ví dụ về những yếu tố văn hóa mới : Người Nam bộ trồng lúa theo kiểu quãng canh , nghĩa là gieo hạt trên một diện rộng , lấy số lượng bù vào năng suất . Tập quán dùng ghe làm nhà ở khá phổ biến tại vùng sông nước đồng bằng sông Cửu Long.Ngôi nhà lá cũng là sản phẩm của quá trình tận dụng môi trường tự nhiên . Nhà được lợp mái bằng lá dừa nước , một loại dừa trái nhỏ , lá dài mọc hoang ven sông , rạch rất nhiều . (Ngày nay , dừa nước được trồng trong khu vực kênh , mương đất nhà một mặt để chống xoáy mòn , một mặt để làm kinh tế phụ : lấy lá dừa chằm thành một loại lá lợp hàng hóa) . Hệ thống cầu khỉ giản đơn ( làm bằng các loại cây thân mộc có trong vườn ) bắc qua kênh , mương tạo thành một thứ công trình giao thông nông thôn đặc thù của Nam bộ. Đạo Hòa Hảo , tên gọi chính thức là Phật giáo Hòa Hảo , một mặt là hiện tượng hỗn dung văn hóa ( kế thừa đạo Bửu Sơn Kỳ Hương , kết hợp tư tưởng Phật giáo với tín ngưỡng thờ ông bà ) một mặt là yếu tố văn hóa mới trên nền của những yếu tố văn hóa truyền thống ( là đạo Phật được bình dân hóa ). Đạo Hòa Hảo ra đời ở làng Hòa hảo ( thuộc tỉnh An Giang ) vào những năm 30 của thế kỷ XX , đề cao Tứ ân , khuyến khích tín đồ tu tại gia theo pháp môn tịnh độ , vốn là một tông phái Phật giáo phổ biến trong giới bình dân .
Đặc điểm thứ hai là quá trình giao lưu văn hóa đa phương diễn ra nhanh chóng liên tục tạo nên sự hỗn dung văn hóa . Trước hết , đó là sự hỗn dung văn hóa giữa những người Việt , vốn là cư dân của nhiều vùng , miền khác nhau tụ họp về Nam bộ trong quá trình khai phá . Thứ hai là sự giao lưu văn hóa giữa các tộc người cùng chung sống . Thứ ba là sự giao lưu văn hóa giữa Nam bộ với phương Tây diễn ra khá sớm và với các dân tộc Đông Nam Á từ thế kỷ XVII (cơ tầng văn hóa Đông Nam Á cổ của nền văn hóa Việt Nam có thể xem là vấn đề phổ quát hơn ). Ngôn ngữ của người Việt Nam bộ có sự vay mượn của tiếng Pháp , tiếng Hoa và tiếng Khmer .Chẳng hạn , từ quen thuộc trong tiếng Việt, "xuồng ",lại là từ gốc Hoa.Người Nam bộ sử dụng đồng thời ba từ thuộc tiếng Việt , Hoa , Khmer để chỉ hiện tượng say rượu : say , xỉn , xà quần .Địa danh Nam bộ bên cạnh những từ mang màu sắc bác học của văn hóa truyền thống với yếu tố long như Vĩnh Long , Tân Long , Long Châu , Long tuyền...còn có những địa danh có nguồn gốc Khmer , những địa danh là sự kết hợp giữa tiếng Việt và tiếng Khmer như cầu Mây Tức (tức, trong tiếng Khmer nghĩa là nước ).Đây là một biểu hiện dễ thấy bên cạnh nhiều biểu hiện khác nhau của sự giao lưu văn hóa như ẩm thực (người Việt ăn món canh chua của người Khmer, món cà ri gà của người Ấn , món lẩu của người Hoa...) mặc và trang sức ( người Việt mặc áo bà ba có nguồn gốc từ Mã Lai ...) , lễ hội ( cả người Việt và người Khmer đều tham gia lễ hội đua ghe ngo) tín ngưỡng (người Việt cũng sùng bái Ông Tà - Niet Tà - thần đất của người Khmer)...
Đạo Cao Đài là một trường hợp khá tiêu biểu cho hiện tượng hỗn dung văn hóa ở Nam bộ. Đạo Cao Đài ( tên chính thức là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ) hình thành từ những năm 20 của thế kỷ XX , có Tòa Thánh lớn nhất ở Tây Ninh với giáo lý tổng hợp của Nho , Phật ,Lão cùng với một số luồng tư tưởng phương Tây . Trong Thánh thất của đạo Cao Đài , cùng với Thiên nhãn còn có Phật , Khổng Tử...Sự giao lưu đa phương dẫn đến hiện tượng hỗn dung văn hóa như vậy là một trong những yếu tố làm nên tính phóng khoáng của người Việt Nam bộ trong quan hệ xã hội, trong nếp sống và suy nghĩ. Bởi vì, để cùng chung sống với nhau, người ta đã chấp nhận những nét dị biệt , không kỳ thị nhau .
Văn hóa Nam bộ là vấn đề rất rộng. Nó chính là văn hóa Việt Nam trên một vùng đất. Trong bài viết nầy chúng tôi cố gắng trình bày một vài biểu hiện của nền văn hóa miệt vườn và văn hóa sông nước, trong đó đặc điểm đáng chú ý là tính chất hỗn dung văn hóa. Chính những yếu tố nền tảng nầy đã chi phối một cách sâu sắc đến quá trình hình thành cũng như những đặc điểm nội dung và thi pháp của văn học dân gian Nam bộ nói chung, ca dao nói riêng.


Tài liệu tham khảo.
Chu Xuân Diên (2002), Cơ sỏ văn hóa Việt Nam,
Nxb Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.


VĂN HÓA SÔNG NƯỚC CẦN THƠ


CHÙA HOA Ở CẦN THƠ


CẢM NHẬN CA DAO NAM BỘ


Thứ Hai, 19 tháng 1, 2009

CHÙA HOA Ở CẦN THƠ

Chùa Ông (bến Ninh Kiều - TP. Cần Thơ)


QUÁ TRÌNH ĐỊNH CƯ
CỦA NGƯỜI HOA Ở
CẦN THƠ

Trần Phỏng Diều

Cần Thơ cũng như các tỉnh thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đất mới, quá trình hình thành vùng đất này chỉ trên dưới ba trăm năm, kể từ những bước chân đầu tiên của lưu dân vào khai khẩn vùng đất hoang Nam Bộ. So với các tỉnh khác trong khu vực, lịch sử hình thành vùng đất Cần Thơ có phần muộn màng hơn. Nhưng trong tương quan giữa các địa phương trong khu vực, Cần Thơ vẫn có những vị thế vững vàng về các mặt: văn hóa, chính trị, kinh tế, quân sự... Và đặc biệt, từ lâu, Cần Thơ đã được xác định là trung tâm của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, với tên gọi Tây Đô - với ý nghĩa, thủ đô của khu vực miền Tây Nam Bộ. Qua nhiều lần chia tách, có thể xác định, Cần Thơ được định hình với một tư thế đĩnh đạc đường hoàng trên dư đồ là vào năm 1739, với tên gọi lúc bấy giờ là Trấn Giang.
I. VÀI NÉT VỀ CÔNG CUỘC KHẨN HOANG Ở NAM BỘ VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÙNG ĐẤT TRẤN GIANG
Ai về thăm Bắc ta về với
Thăm lại non sông giống Lạc Hồng
Từ độ mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long
Ai nhớ người chăng? Ơi Nguyễn Hoàng
Mà ta con cháu mấy đời hoang
Vẫn nghe trong máu buồn xa xứ
Non nước Rồng Tiên nặng nhớ thương.
(Nhớ Bắc - Huỳnh Văn Nghệ)
Những khám phá khảo cổ học trên vùng đất Nam Bộ cho biết rằng, cách đây khoảng 4000 năm, vùng đất Nam Bộ này đã có con người cư trú và hoạt động trên một địa bàn rộng lớn. Tuy nhiên, lớp cư dân này chủ yếu cư trú ở vùng cao - vùng Đông Nam Bộ, còn vùng Đồng bằng sông Cửu Long cho mãi đến thế kỷ đầu công nguyên mới có những lớp người bắt đầu đến cư trú ở vùng tứ giác Long Xuyên, mà trước hết là vùng Óc Eo - Ba Thê. Lớp cư dân này trong quá trình chinh phục và khai phá vùng đất ở đây bắt đầu ổn định cuộc sống và dần dần hình thành những vùng đô thị ở cảng Óc Eo - Ba Thê. “Óc Eo là một hải cảng của đế đô vương quốc Phù Nam (tên là yadhapura - đô thị của các nhà săn bắn) nằm gần đồi núi Bathnom và gần xã Banam ở trong tỉnh Prêy Veng của Campuchia ngày nay. Vương quốc Phù Nam là một nước nằm trên đường nối Ấn Độ với Trung Quốc (...) Nước này tồn tại từ thế kỷ II đến khoảng đầu thế kỷ VII (thời phồn thịnh từ thế kỷ III đến thế kỷ V ) đã chiếm cả một vùng đất rộng lớn từ Đồng bằng sông Cửu Long đến Nam Trung Bộ, sang cả vùng trung lưu sông MêKông, qua thung lũng sông Mênam và xuống tận bán đảo Mã Lai”
[1]
Như vậy, vương quốc Phù Nam tồn tại được trong vòng 6 thế kỷ thì bắt đầu suy tàn, thay vào đó là vương quốc Chân Lạp. Cho mãi đến thế kỷ XVI, vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã hoàn toàn trở thành vùng đất thủy Chân Lạp. Trong giai đoạn này, người Khơme vẫn là lớp người cư trú đầu tiên và chủ yếu, nhưng với số lượng rất ít ỏi, phần lớn sống rải rác ở các dải đất giồng, không thích hợp với việc sinh sống bằng nghề trồng lúa nước. Cho nên, về cơ bản, trong giai đoạn này, Đồng bằng sông Cửu Long vẫn còn là vùng đất hoang vu. Điều này đã được Châu Đạt Quan - một sứ thần của triều đình nhà Nguyên (Trung Quốc) ghi lại trong Chân Lạp phong thổ ký, khi ông được cử sang kinh đô Ăngco để ban giao với vua nước Chân Lạp lúc bấy giờ là Xadravácman: “Bắt đầu vào Chân Bồ (vùng biển Vũng Tàu ngày nay), gần hết cả vùng đều là bụi rậm của rừng thấp, những cửa rộng của con sông lớn trải dài hàng trăn dặm, bóng mát um tùm của những gốc cổ thụ và cây mây dài tạo thành nhiều chỗ trú sum suê... Khắp nơi vang tiếng chim hót và tiếng thú kêu. Vào nửa đường trong sông, thấy những cánh đồng hoang không một gốc cây. Xa nữa, tầm mắt chỉ thấy toàn cỏ cây đầy rẫy. Hàng trăm, hàng nghìn trâu rừng tụ họp từng bầy. Tiếp đó, nhiều con đường dốc đầy tre chạy dài hàng trăm dặm”
[2]. Tình trạng hoang vu đó còn kéo dài cho mãi đến sau này.
Từ thế kỷ XVII, vùng đất Nam Bộ nói chung, Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng bắt đầu đón nhận thêm những lớp cư dân mới, với những nền văn hóa mới đến đây cùng khẩn hoang và lập nghiệp. Lớp cư dân này phần lớn là những người buộc phải xa rời quê cha đất tổ để tìm con đường sống do tai họa chiến tranh giữa hai tập đoàn Trịnh - Nguyễn gây ra. Trong đó cũng có một số người là nông dân, thợ thủ công nghèo, những người tha phương kiếm sống, những tội đồ không chịu nỗi sự áp bức, bốc lột tàn bạo của giai cấp phong kiến. Khu vực định cư đầu tiên của những lưu dân này là vùng Mô Xoài (vùng Bà Rịa) và Đồng Nai (Biên Hòa và Sài Gòn).
Trong lớp cư dân mới đến vùng Đồng bằng sông Cửu Long vào cuối thế kỷ XVII, còn có một số người Hoa từ các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến (Trung Quốc), mà phần đông là quan, quân nhà Minh không chịu thần phục triều đình Mãn Thanh. “Mùa hè, tháng 5, quan Tổng binh trấn thủ Long môn Dương Ngạn Địch và phó tướng Hoàng Tiến; quan Tổng binh trấn thủ Cao, Lôi, Liêm là Trần Thượng Xuyên và phó tướng Trần An Bình đem binh thuyền và gia quyến trên 3000 người và 50 chiếc thuyền vào hai hải cảng Tư Hiền và Đà Nẵng. Họ tâu xin làm thần bộc nước ta. Họ được như ý và được chỉ định vào định cư trên đất Đồng Nai và Mỹ Tho”
[3]. Đến với Đồng bằng sông Cửu Long vào cuối thế kỷ XVII còn có thêm một lực lượng “phản Thanh phục Minh” khác, đó là lực lượng do Mạc Cửu cầm đầu. Mạc Cửu là người Châu Lôi, tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc). Khác với nhóm Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch, Mạc Cửu đến Lục Chân Lạp trước, đến vùng Đồng bằng sông Cửu Long sau. “Bấy giờ có viên di tướng nhà Minh ở Lôi Châu tên là Mạc Cửu, không chịu thần phục triều đình nhà Thanh, bỏ nước đem gia quyến sang tá túc ở Nam Vang, kinh đô Chân Lạp. Biết được tình hình ở Mang Khảm, Mạc Cửu bèn trưng mua thế, đem gia quyến tới ở Phương Thành và khai thác vùng này (...) Khi sắp xếp hành chính trong khu vực đã tương đối ổn định, dân chúng quy tụ về đã khá đông, tháng 8 năm Mậu Tý (1708) Mạc Cửu bèn sai thuộc hạ là Trương Cầu, Lý Xá dâng biểu văn trần tình lên Triều đình Phú Xuân, xin hiến đất Hà Tiên cho Đại Việt và xin được làm quan trưởng xứ ấy. Chúa Hiển tông Hiếu Minh hoàng đế Nguyễn Phúc Chu chấp thuận và sắc cho Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên, tước Cửu Ngọc hầu”[4]. Ngoài ra, khoảng thế kỷ XVIII, vùng đất này lại đón thêm một số lớn người Chăm đến đây sinh sống.
Cuộc sống cộng cư của các dân tộc, mà thành phần người Việt là chủ yếu giữa vùng đất hoang vu, đầy khắc nghiệt đã tạo nên sự đoàn kết, hòa thuận giữa các dân tộc anh em. Tất cả cùng chung sức khai phá vùng đất hoang Đồng bằng sông Cửu Long với quy mô ngày càng lớn. Biến vùng đất hoang vu, rừng rậm này trở thành những xóm làng đông đúc, ruộng đồng phì nhiêu, xây lộ, đắp cầu, dần dần hình thanh chợ búa, thị tứ và từ đó trung tâm dân cư cũng được thiết lập. Cuộc sống của cư dân lúc bấy giờ chủ yếu là các nghề làm ruộng muối, chài lưới, đánh bắt thủy hải sản, lên rừng đốn củi, lấy mật ong, săn thú...
Khoảng thế kỷ XVIII, lưu dân người Việt cũng bắt đầu đến định cư và tiến hành khai khẩn ở hai bờ vàm cỏ Tây, bờ bắc sông Tiền bao gồm: Cai Lậy, Gò Công rồi tiến dần đến vùng Đồng Tháp Mười, Khu tứ giác Long Xuyên. Vùng bờ nam sông Tiền thì bao gồm các khu Cái Mơn, Cái Nhum, Sa Đéc cho đến Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng... Có thể tóm lược công cuộc khẩn hoang và Nam tiến của dân tộc qua các thời điểm sau: Mô Xoài, Đồng Nai (1658); Gia Định (1698); Hà Tiên (1714); Mỹ Tho, Long Hồ (1731); Long Xuyên, Kiên Giang, Trấn Giang, Trấn Di (1739); Tầm Bôn, Lôi Lạp (1756); Trà Vang, Ba Thắc (1757).
Như vậy, Trấn Giang (Cần Thơ) vào khoảng thế kỷ XVIII về cơ bản vẫn còn là vùng đất đầm lầy, nê địa, rừng rậm hoang vu, thú dữ tràn đầy.


[1] Thạch Phương - Hồ Lê - Huỳnh Lứa - Nguyễn Quang Vinh: Văn hóa dân gian người Việt ở Nam Bộ. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nộ i- 1992. Tr. 26.
[2] Dẫn theo: Thạch Phương - Hồ Lê - Huỳnh Lứa - Nguyễn Quang Vinh, sđd. Tr. 28.
[3] Nguyễn Văn Hầu: Sự thôn thuộc và khai thác đất Tầm Phong Long. Tập san Sử Địa: Nam tiến của dân tộc Việt Nam. Khai Trí - 1970. Tr.6
[4] Nguyễn Đình Tư: Lịch sử thành lập tỉnh Kiên Giang. Tạp chí Xưa và Nay, số 226, tháng 12 - 2004.

RÒ BÂM



TỪ BÀI THƠ KHUYẾT DANH
ĐẾN LOẠI HÌNH
“MẶT NẠ VŨ KỊCH KHƠ ME ĐBSCL”

* NGUYỄN TRUNG NGUYÊN


“Em đâu rồi hỡi nang Xê – Đa
Không khéo lạc giữa dòng người xuôi về lễ hội
Chằn “Krông Riếp” lại làm em buồn tủi
Và anh cũng mất vui trong ngày đón hội mùa…”
Bốn câu thơ trên là khổ đầu trong một bài thơ 20 câu có tên “Tìm em đêm lễ hội”, tôi đọc trên một tờ báo phát hành cách đây phải đến vài chục năm mà tôi tình cờ vớ được khi dọn dẹp đống báo cũ. Mối mọt chẳng chút nể nang cũng như chẳng cần biết văn học là gì nên đã xơi mất tên tác giả, tuy nhiên ấn tượng mà bài thơ để lại trong tôi ngoài nội dung của nó còn là những cái tên, những cụm từ là lạ mà tôi không thể nào hiểu rõ ý nghĩa. Với chút kiến thức ít ỏi của mình tôi hiểu đại khái đây chắc là tâm sự của một chàng trai Khơ me đi tìm người yêu trong đêm lễ hội. Chàng trai đã mượn tên các nhân vật trong một câu chuyện gì đó, có thể tương tự như “Thạch Sanh, Lý Thông” của người Kinh mà gởi gắm nỗi niềm.
“Đêm Trà Vinh trời rộng ghê chưa
Sao Liệt Hộ chỉ tay về hướng bắc
Anh tìm em như chàng Prặc…
Bỏ ngai vàng quết cớm dẹp mòn tay…”
Cớm dẹp là món ăn truyền thống không thể thiếu của người Khơ me trong các dịp lễ hội. Nó được làm bằng nếp mới trộn với dừa nạo và đường, an rất ngon. Như vậy Prặc Riêm là một vị vua, vì tình yêu mà bỏ cả ngai vàng về làm một người nông dân. Tuy nhiên, nếu nội dung bài thơ chỉ có vậy thì cũng không có gì đáng nói. Đằng nầy, ở các khổ thơ sau có hai cụm từ rất lạ. Mà tôi, dù đã suy nghĩ nát óc vẫn không tài nào hiểu được ý nghĩa của nó:
“Chằn bây giờ cũng nhiều lắm nghe em
Những ông chằn không mang mặt nạ
Hạt lúa, củ khoai cho mình no dạ
Tình anh cho em mỗi ngày không đủ vui sao?

Anh nguyện đi đầu trong lễ dâng bông
Đánh đông – dẹp bắc để quỷ ma không còn đất sống
Rước em bằng kiệu tay về quê cày ruộng
Cho em có quyền “mục-ca-xách” tim anh…
Và ở khổ cuối cùng:
“Em đâu rồi hỡi nàng Xê – Đa
Ghe ngo đã sẵn sàng xuất phát
Thuyền rước dâu vắng em chẳng về bến được
Anh thui thủi một mình “Tro-chăn-ca”
Yêu thích bài thơ bao nhiêu thì hai cụm từ “mục-ca-xách” và “Tro-chăn-ca” càng làm tôi “tức tối" bấy nhiêu. Thế là tôi quyết định làm một cuộc hành trinh "giải mã” để thử xem nhà thơ không quen biết ấy muốn nói gì qua mấy câu thơ nh­ư đánh đố độc giả. Thoạt đầu, tôi nghĩ có thể đây là một kiểu "chơi chữ" như­ thi thoảng ng­ười ta vẫn thêm vào câu văn vài tiếng nước ngoài cho ra vẻ. Và như ­ thế thì chỉ cần tìm một ngư­ời nào đó giỏi ngôn ngữ Khơ me là xong. May mắn thay, tối có quen một anh bạn là ng­ười Khơ me đã tốt nghiệp khoa đạo diễn, tr­ường Nghệ thuật sân khấu II TP. Hồ Chí Minh. Hiện nay anh đang là giáo viên bộ môn sân khấu trường Văn hóa Nghệ thuật TP. Cần Thơ, ngoài ra anh còn là ng­ười phụ trách Câu lạc bộ Cải lư­ơng Đồng Ấu, nơi quy tụ một số em có năng khiếu và yêu thích bộ môn cải lương. Ở đây các em được hướng dẫn, tập tành cũng như dàn dựng các trích đoạn, b­ước đầu dã thu được một số kết quả khả quan qua các kỳ hội diễn. Rõ ràng anh bạn Thạch Sỹ Long là ng­ười hội đủ hai yếu tố "ắt có và đủ” để giúp tôi tìm hiểu về bài thơ.
Đọc xong bài thơ mà tôi đã cẩn thận chép lại bằng vi tính. Anh ta nói . Đây là là các nhân vật chính trong tích tuồng Riêm-kê dị bản Khơ me của trư­ờng ca Ramâyana, được thể hiện qua loại hình mặt nạ vũ kịch Rò Bâm của ngư­ời Khơ me. Sử thi Ramâyana là bản anh hùng ca đư­ợc xem là nền tảng đạo lý của Ấn Độ và là thánh thư của ng­ười theo Ấn giáo (Hindou). Còn Rò bâm th­ường được gọi tắt là hát “Rầm” hay còn gọi là “Rom yắc” có nghĩa là múa chằn. Còn nếu gọi một cách thật chính xác là “Rom Rò Bâm" tức là múa Rò Bâm. Chính cách gọi đầy đủ nầy đã chỉ rõ đặc điểm cơ bản của Rò Bâm là loại hình sân khấu sử dụng ngôn ngữ múa là chủ yếu. Nói cách khác Rò Bâm là vũ kịch. Diễn viên dùng múa để thể hiện tính cách, tâm lý của nhân và hát chiếm tỷ trọng nhỏ hơn múa rất nhiều...
Được anh giải thích khá tư­ờng tận nh­ư vậy, ít nhiều tôi cũng giải tỏa một phần nhữ­ng thắc mắc trong đầu. Thế nh­ưng, khi nói đến hai cụm từ “Mục-ca-xách” Và “Tro-chăn-ca” thì ngay cả anh cũng “tắc tị". Tuy nhiên, chính nhờ những thông tin ban đầu ấy, đã giúp tôi rất nhiều trong việc tìm hiểu về một loại hình nghệ thuật dân tộc truyền thống của ngư­ời Khơ me, những cư dân sống trên khu vực đồng bằng sông Cửu Long mà nay d­ường như­ đã hoàn toàn vắng bóng trên các sân khấu biểu diễn.
Khó có thể xác định một cách có căn cứ về nguồn gốc của loại hình vũ kịch mặt nạ nầy ở ĐBSCL. Song điều chắc chắn là nó đã có mặt từ­ lâu đời và là loại hình sân khấu cổ x­ưa nhất của người Khơ me. Hỉện nay, Rò Bâm không còn phổ biến rộng rãi nữa, mà ngay cả hơn hai mư­ơi năm về tr­ước loại hình nghệ thuật nầy cũng chỉ co cụm ở một số địa phương có đông ngư­ời Khơme sinh sống như­ : Giồng Líu, Tà Hom, Hiếu Tử thuộc tỉnh Trà Vinh hoặc Bố Thảo, B­ưng Chông... của tỉnh Sóc Trăng. Các địa ph­ương khác ở miền tây nam bộ, Rò Bâm không hề có hoặc đã lụi tàn… Càng tìm hiểu sâu về loại hình nghệ thuật nầy, tôi càng bị một nỗi buồn, một nỗi nhớ tiếc điều gì đó không thật cụ thể nhưng nó cứ đeo đẵng tôi suốt trong bài viết nầy. Có thể đó là một hoài niệm xa xôi của chàng trai trong đêm lễ hội ngày xư­a, không tìm đ­ược ngư­ời yêu để rồi sau đó xa nhau mãi mãi.
Từ khi loại hình Dù Kê cơ động ra đời, Rò Bâm đã mất đi vị trí vốn có của nó tr­ước kia. Ở vào thời hoàng kim của mình, Rò Bâm rất được sự hâm mộ của đông đảo ng­ười xem, nhất là những người lớn tuổi. Loại hình vũ kịch mặt nạ nầy đã tác dụng không nhỏ đến đời sống thẩm mỹ nghệ thuật của ngư­ời Khơme ĐBSCL trong một giai đoạn lịch sử nào đó . Với kịch bản rút từ truyện Riêm Kê , Rò Bâm đã là phư­ơng tiện truyền đạt có hiệu quả và sinh động trong cuộc chiến đấu đầy gian khổ và thắng lợi của chính nghĩa, khẳng định thiện thắng ác và đề cao lòng chung thủy vô bờ bến của nàng Xê Đa, nói cách khác nó dã chuyển tải một cách sống động truyện Riêm Kê , tác phẩm văn học nền tảng của văn hóa Khơ me.
Theo một số nghệ nhân lớn tuổi cũng như­ những ng­ười am hiểu về loại hình nghệ thuật nầy cho biết. Tr­ước đây. việc dàn dựng kịch bản Rò Băm mỗi nơi mỗi khác, hoàn toàn không ổn định. Tuy có cùng xuất xứ là truyện Riêm Kê, nh­ưng mỗi đoàn chỉ dựa vào những tình tiết cơ bản của cốt truyện, sau đó sắp xếp thành vở diễn riêng. Việc chọn lựa các trích đoạn cũng không giống nhau. Có đoàn diễn đoạn : “… Từ lúc Diphếc, em của chúa chằn Krông Riếp, bị anh đuổi khỏi Lân Ka về hàng phục Prặc Riêm. Cho đến lúc Riêm chiếm được Lân Ka, phong cho Diphếc thay Krông Riếp làm vua Lân Ka… ". Lại có đoàn diễn đoạn : "...Hãnuman ra Lân Ka đem tin tức cho nàng Xê Đa...” hoặc đoạn : “Prặc Riêm thử cung và được đạo sĩ gả Xê-Đa…”.
Xét ở góc độ nghệ thuật thuần túy phư­ơng thức biểu đạt chính của Rò Bâm là múa. Do đó, để trình diễn một tích tuồng có quy mô đồ sộ là Riêm Kê đòi hỏi một khối l­ượng động tác múa tư­ơng xứng, với một trình độ nghệ thuật cao khả dĩ truyền đạt đ­ược cho ngư­ời xem những hình tư­ợng sân khấu và chủ đề của tác phẩm. B­ước vào vở diễn, các diễn viên khi ra sân khấu phải múa chào rồi mới diễn và tr­ước khi kết thúc cũng múa lại động tác lúc đầu rồi mới vào. Đó là nguyên tắc chung cho các vai chính diện không đeo mặt nạ (Prặc Riêm-Prặc Lẹt-Xê Đa...), còn các vai có đeo mặt nạ lại khác, nói chung mỗi loại nhân vật đều có điệu múa riêng thể hiện vai của mình. Nếu ở vai thiện, các động tác múa thống nhất ở chỗ dịu dàng, mềm mại, hoặc có lúc đĩnh đạt, tinh tứ, thiết tha hay dồn dập quyết liệt khi đối đầu với kẻ thù . Nh­ưng ở tất cả mọi tình huống. đều giữ được phong thái của kẻ cao thượng, chính đại khác hẳn với tính bản năng, thô bạo của phe ác – của bọn chằn tinh. Thì ở phe phản diện, đều là dòng họ của chằn Krông Riếp. Đó là anh em của hắn (Wì Riếp – Cômaka – Asêl - Wiđacaxây...) hay là con cái (lnđachích). Tất cả đều mang mặt nạ có nhiều tầng đầu, mặt mũi dữ tợn. Mỗi nhân vật đều có mặt nạ riêng, y trang ngoại hình khác nhau, nhưng lại múa một số động tác giống nhau. Khi chằn xuất hiện trên sân khấu thì toàn bộ cục diện sân khấu trở nên ồn ào, sôi động. Phong cách đặc tr­ưng của vai chằn là b­ước đi nặng nề, chân dậm mạnh trên sàn, tấn thấp, chân khuỳnh ra hai bên, trong khi đó tay luôn chỉ trỏ, eo mềm, mông lắc theo nhịp nhạc nhanh, dồn dập bộc lộ tính chất hách dịch, võ biển. Đứng về khía cạnh riêng của nghệ thuật múa mà xét thì múa chằn là sáng tạo đáng chú ý, đạt trình độ kỷ thuật cao và giàu khả năng biểu hiện.
Ngoài hai tuyến nhân vật trên, Rò Băm còn một loạt những nhân vật khác như­: đạo sĩ, bà lão, chim thần, hề và đặc biệt quan trọng là khl. Mà tư­ớng khỉ Hãnuman còn có khi gọi là Hắc Hầu Vư­ơng, một thuộc hạ trung thành của Prặc Riêm, là nhân vật cầm đầu đoàn quân khl. Ngoài ra còn có thêm hai nhân vật vua khỉ - cậu của Hãnuman. (Ở một số nước Đông Nam Á, ta có thể bắt gặp hình ảnh Hãnuman ở mọi nơi, trong sách vở, đền chùa, tranh tượng. Theo học giả Trung Quốc Hồ Thích thì con khỉ Tôn Ngộ Không trong Tây Du Ký là hình bóng của con khi Hãnuman được Đư­ờng Tam Tạng du nhập vào sau chuyến thỉnh kinh. Hồi ấy đạo Bà La Môn rất thịnh ở Ấn Độ và cạnh tranh thế lực với Phật giáo. Người theo Phật giáo đại thừa ở Trung Hoa có lẻ đã mô phỏng hình ảnh Hãnuman dể tạo ra Tôn Ngộ Không của mình).
Tất cả các vai khỉ đều mang mặt nạ khỉ và có các động tác múa riêng. Nhìn chung, các động tác múa của vai khỉ có tính ư­ớc lệ và cách thể hiện đã gây nên hiệu quả tạo hình nhất định. Đôi lúc các diễn viên khl cũng nhại lại dáng đi đứng và sinh hoạt của loài vật nầy một cách tự nhiên chủ nghĩa như­ gãi s­ườn, gãi nách, bắt chí, nhào lộn và nhảy nhót.
Như­ vậy, múa trong Rò bâm là một tập hợp phong phú và quy cũ có khả năng diễn đạt một cách ­ước lệ tất cả các tình huống, cũng như­ tính cách và tâm lý nhân vật. Tuy lấy múa làm ngôn ngữ chính như­ng lời ca và âm nhạc cũng dự phần quan trọng. Múa tất nhiên là múa trên nền nhạc: hoặc vừa múa vừa hát (các vai không mang mặt nạ); tiếng hát trong hậu tr­ường hoặc múa trên nền nhạc hòa tấu. Lúc đối thoại thì không có nhạc, cũng không múa. Riêng vai hề thì không hát, cũng không múa theo bài bản quy định mà chỉ pha trò theo khẩu ngữ hoặc chỉ hát những làn điệu dân gian có tính hứng diễn. Với vai hề, sân khấu Rò Bâm vui t­ươi hơn và đời hơn. Hề làm thay đổi cái không khi cổ xư­a và thần thoại của vở diễn.
Trở lại với bài thơ khuyết danh “Tìm em đêm lễ hội", từ hai câu: “Đêm Trà Vinh trời rộng ghê ch­ưa. Sao Liệt Hộ chỉ tay về hướng bắc…" mà tôi đã làm một cuộc hành trình đi về nơi có thể tác giả đã sinh ra và lớn lên ở đây, với mong muốn được biết – được gặp một người làm thơ hết sức gắn bó với quê hương, ruộng đồng cũng như yêu tha thiết loại hình nghệ thuật mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Thế nh­ưng, tôi đã thất vọng, nhà văn Hồ Tĩnh Tâm, ng­ười rất gắn bó với tỉnh Cửu Long (cũ) nơi có ng­ười Khơ­me đông nhất nhì ở ĐBSCL, lắc đầu bảo không biết tác giả. Nhiều anh em văn nghệ sĩ khác cũng vậy, họ ch­ưa từng đọc cũng như­ biết ng­ười đã viết những câu thơ là lạ ấy.
Khi đã có những hiểu biết nhất định về loại hình nghệ thuật vũ kịch mặt nạ Khơme ĐBSCL Rò Bâm đọc lại bài thơ­ tôi mới thấy rằng tác giả đã gởi biết bao tình cảm của mình trong từng câu chữ. Với “cớm dẹp" món ăn mà Prặc Riêm đả bỏ ngai vàng để quết đến “mòn tay” ấy, là lễ vật không thể thiếu trong các lễ hội của ngư­ời Khơme. Như­ ở lễ Okombok – là lễ cúng trăng của đồng bào Khơme Nam bộ th­ường đ­ược tổ chức vào ngày 15 tháng l0 âm lịch hàng năm với mục đích tạ ơn thần trăng đã cho mùa màng t­ươi tốt, sông ngòi nhiều tôm cá, ngư­ời ng­ười được mạnh khỏe.
Tối hôm làm lễ, khi mặt trăng vừa ló dạng, ng­ười ta bày giữa sân một mâm cổ cúng gồm có đĩa cớm dẹp, chuối chín và dứa tươi gọt vỏ, khoai mì… Nhang và đèn được thắp lên trên chiếc cống nhỏ làm bằng hai thân tre hay nứa cột chụm lại. Trong khi cúng họ căn cứ vào giọt sáp rơi xuống trên miếng lá chuối đ­ược đặt bên d­ưới để đoán mư­a nắng và thời tiết cho năm tới. Cúng xong mọi ng­ươi ăn uống vui vẻ, trong lúc những chiếc đèn giấy được thả bay lên trời trong tiếng nhạc ngũ âm và những chiếc bè chuối có gắn đèn và các lễ vật lờ lững trôi trên các con kênh, các dòng sông. Tục thả đèn nổi, đèn bay là nghi lễ nhằm xua đuổi bóng tối, sự ẩm ­ướt mùa mư­a.
Với chòm sao Liệt Hộ - có tên khoa học là sao Orion đã đ­ược bà con nông dân ta gọi một cách thân thuộc là sao Thần Nông. Là một chòm sao có hình dáng một ng­ươi đang vác trên vai chiếc cày, mà những cư dân có nền văn minh lúa n­ước như­ Việt Nam, Campuchia x­ưa kia vẫn dựa vào đấy để dự đoán thời tiết cho vụ mùa trong năm.
Còn ở hai câu thơ: "…Anh nguyện đi đầu trong lễ dâng bông. Đánh đông dẹp bắc để quỷ ma không còn đất sống... " thì nhà thơ lại đề cập đến một vấn đề khác. Thực tế, đứng ở khía cạnh dân tộc học mà xét các đoàn Rò Bâm khi biểu diễn các trích đoạn của truyện Riêm Kê, ít nhiều mang màu sắc tín ng­ưỡng. Ngày x­ưa một số đoàn Rò Bâm th­ường biểu diễn với đầy đủ y trang mặt nạ, nhạc cụ phục vụ cho lễ Dâng bông và lễ cúng ông Tà. Ở trong buổi diễn nẩy, đoàn Rò Bâm đi theo đoàn ng­ười dâng bông từ nhà đến chùa và đi ba vòng quanh chính điện. Vừa đi các diễn viên vừa múa hát. Việc biểu diễn nầy không chỉ để giúp vui cho buổi lễ mà chủ yếu nhầm "đánh quỷ để dẹp đường” cho đám ng­ười hành lễ. Trò diễn nầy trong chừ­ng mực nào đó có ý nghĩa t­ương tự như­ trò Tề Thiên đánh động của ng­ười Việt ở ĐBSCL. Mặt khác, như­ một tập quán, việc biểu diễn Rò Bâm chỉ tổ chức tr­ước mùa m­ưa, trong lễ cúng ông Tà là hình thức biểu diễn có chức năng của một nghi lễ nông nghiệp rõ rệt. Theo đó, việc chiến thắng chằn Krông Riếp hàm ý là sự thắng lợi của điều tốt, tiêu diệt điều xấu; và ở thời diềm ấy thì điều xấu chính là nắng hạn, dịch bịnh và điều tốt là mưa thuận gió hòa, sự sung túc và bình yên cho dân sóc.
Tìm hiểu về loại hình nghệ thuật vũ kịch mặt nạ Rò Bâm xem nh­ư tôi đã ít, nhiều biết rõ về nó. Nh­ưng tìm ra ngư­ời viết bài thơ ấy thì tôi đành đầu hàng. Ông là ai? Một ngư­ời làm thơ chuyên nghiệp hay chỉ là cảm hứng nhất thời khi nỗi buồn trĩu nặng vi không gặp được ng­ười yêu. Ông còn hay đã mất? Mà sao những vần thơ của ông cứ làm tôi đau đáu khôn nguôi: “Rước em bằng kiệu tay về quê cày ruộng. Cho em cái quyền “Mục – ca – xách” tim anh…”. Mục-ca-xách ở đây chính là một động tác múa của chằn Krông Riếp - có nghĩa là “đi ngang ngông nghênh”. Có phải trái tim ông đã bị ng­ười yêu giày xéo. Để rồi “Thuyền rước dâu vắng em chẳng về bến được. Anh thui thủi một mình “Tro – chăn – ca”. Tro-chăn-ca cũng là một động tác múa của các vai đại diện cho phe thiện. Đó là “Tay chống càm, tay bợ chỏ” thể hiện trạng thái tình cảm đang buồn - rất buồn.
Trong quá trình tìm hiểu giải mã bài thơ, tôi đã gặp khá nhiều người, tra cứu không ít nguồn thông tin, tư liệu (*). Để rồi chợt nhận ra một điều: loại hình vũ kịch mặt nạ Khơme ĐDSCL gần như­ đã hoàn toàn mai một. Có còn chăng là một, hai trích đoạn ở các đoàn nghệ thuật Khơme lớn nhưng việc đem ra biểu diễn thì cũng "năm thì m­ười họa". Còn các đoàn Rò Bâm tự phát trong bà con nông dân thì đã hàng mấy chục năm nay hoàn toàn vắng bóng. Có lần, tôi đọc được trên báo Cần Thơ chủ nhật, bài viết “Đôi nét về Dân nhạc-dân ca- Dân vũ của ngư­ời Khơme ở Cà Mau” của hai tác giả Nguyễn Tri và Phạm Anh Hoan. Đã đề cập đến khá nhiều loại hình nghệ thuật của ng­ười Khơme nh­ưng không thấy nói tới Rò Bâm.
Ở khá nhiều ngôi chùa Khơme miệt Sóc Trăng, Trà Vinh vẫn còn các pho t­ượng chằn Krông Riếp nhiều tầng đầu dữ tợn, đứng đó như chứng nhân cho một loại hình nghệ thuật đã lùi vào dĩ vãng . Thời gian trôi qua, đem đến cho chúng ta nhiều niềm vui, hạnh phúc mới. Thì cũng lấy di một điều gì đó, những nghệ nhân sắm vai : Prặc Riêm, nàng Xê Đa, Chúa khỉ Hãnuman... “Những người muôn năm cũ. Hồn bây giờ nơi đâu?”. Tôl xin mượn hai câu thơ trong bài : "Ông đồ già" của nhà thơ Vũ Đình Liên để chấm dứt bài viết nầy.



(* Theo nhà nghiên cứu Huỳnh ngọc Trảng)