(Chợ nổi Cái Răng - content.cantho.gov.vn)II. TRẤN GIANG SAU NHỮNG LẦN DIÊN CÁCH
VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÙNG ĐẤT CẦN THƠ
TRẦN PHỎNG DIỀU
Tình trạng hoang vu của vùng đất Trấn Giang có thể lý giải ở hai nguyên nhân sau: Thứ nhất: Trong suốt thời gian dài, các đời chúa Nguyễn và cho mãi đến sau này người Pháp đến xâm lược, vùng Trấn Giang lúc bấy giờ vẫn là vùng không quan trọng. Thứ hai, cả vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói chung, Trấn Giang - Cần Thơ nói riêng, ở giai đoạn này, đất rộng người thưa, không đủ cư dân để khai phá. Hơn nữa, Trấn Giang là vùng đất khai phá có phần muộn màng hơn các vùng khác ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, nên tình trạng hoang vu kéo dài là một điều dễ hiểu. “Thời Gia Long, vùng Cần Thơ chưa có nhiều người Việt đến định cư nên cả vùng cần Thơ rộng lớn chỉ mới hình thành một số làng như làng Tân An ở khu vực rạch Cần Thơ, làng Thới An ở vùng Ô Môn, làng Thới Thuận, làng Tân Thuận Đông ở vùng Thốt Nốt, làng Bình Thủy ở khu vực rạch Bình Thủy, làng Phú Mỹ ở khu vực rạch Cái Côn, mà làng này cách làng kia hàng chục cây số, nằm trên các vùng đất gò, đất giồng. Để hình dung rõ hơn tiến độ khai thác rất chậm của vùng Cần Thơ trong một thời gian dài từ năm 1737 đến hết thời Gia Long, chúng ta cần biết thêm một điều là: Vào thời Gia Long, vùng Cần Thơ, Ô Môn, Thốt Nốt nằm trong huyện Vĩnh Định (thuộc phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh), một huyện rộng lớn bao trùm cả phía hữu ngạn Hậu Giang, suốt từ biên giới Châu Đốc chạy dài xuống đến vàm Ba Thắc biển nam Hải, nhưng vì dân thưa nên cả huyện chỉ có 37 thôn và chưa phân ra thành tổng như ở miệt trên”
[1].Từ năm Gia Long thứ 7 (1808) đến năm Minh Mạng thứ 20 (1839), Trấn Giang đã phải mấy lần được phân định lại địa giới và đổi tên. Khi thuộc phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh (Vĩnh Long ngày nay), khi thì thuộc phủ Tân Thành, rồi phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang. Năm Gia Long thứ 12 (1813), cắt đất phân ranh lại, lập thêm huyện Vĩnh Định, vẫn trực thuộc phủ Định Viễn, là vùng phì nhiêu nhất. Đến năm Minh Mạng thứ 20 (1839), Cần Thơ lại mang tên là huyện Phong Phú, thuộc phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang, gồm 3 tổng, 31 xã, thôn. Trong giai đoạn này, Cần Thơ phát triển có phần rực rỡ. Do Cần Thơ nằm ở trung tâm vị thế giao thương của các tỉnh miền Tây, nên năm 1868, khi Pháp đã chiếm ba tỉnh miền Tây Nam kỳ thì Cần Thơ là vùng trọng điểm của chính sách đẩy mạnh khai thác nông nghiệp để phục vụ xuất khẩu, nhằm thu lợi nhuận cho Pháp. Pháp tổ chức công cuộc đào kênh quy mô lớn, tạo thành một hệ thống kênh đào dày đặc nối Cần Thơ với Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá, nhằm giúp cho Pháp có điều kiện thuận lợi mở rộng nhanh chóng công cuộc khai thác đất đai. Dưới thời Pháp thuộc, Cần Thơ lại trải qua nhiều lần chia tách.
Ngày 01 tháng giêng năm 1868, Thống đốc Nam kỳ là Bonard quyết định sáp nhập huyện Phong Phú (Trấn Giang - Cần Thơ) với Bãi Sào (Sóc Trăng) đặt thành một quận, lập tòa bố tại Sa Đéc.
Ngày 23 tháng 2 năm 1876, Soái phủ Sài Gòn ra nghị quyết, lấy huyện Phong Phú và một phần huyện An Xuyên, Tân Thành để lập nên hạt Cần Thơ (arrondissement de Can Tho) với thủ phủ là Cần Thơ. Giai đoạn này, Cần Thơ đã thể hiện rõ vai trò của mình, là điểm trung chuyển quan trọng, nắm các con đường huyết mạch từ các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long lên Sài Gòn - Chợ Lớn. “(...) Tỉnh lỵ dời về rạch Cần Thơ thì chợ Cần Thơ trở thành địa điểm trung chuyển quan trọng nắm luôn con đường thông thương thứ hai cũng nối từ Hậu Giang qua Tiền Giang đi lên Sài Gòn - Chợ Lớn”[2].
Sau Hiệp định Genéve năm 1954, đất nước ta tạm thời bị chia cắt. Lúc này, đế quốc Mỹ nhảy vào Việt Nam thay chân Pháp, phá hoại Hiệp định Genéve, dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm làm tay sai cho Mỹ, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Từ đó, địa giới hành chính trong chế độ cũ ở miền Nam nói chung, và tỉnh Cần Thơ nói riêng có nhiều thay đổi. Năm 1956, chính quyền Ngô Đình Diệm quyết định đổi tên tỉnh Cần Thơ thành tỉnh Phong Dinh. Năm 1961, tách một vùng đất ở Long Mỹ, Vị Thanh lập thành tỉnh Chương Thiện.
Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Nam Bắc thống nhất một nhà, giang sơn thu về một mối, chính phủ ta công bố Nghị định số 03/NĐ -76, ngày 24.3.1976, sáp nhập tỉnh Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ lập thành tỉnh mới lấy tên là Hậu Giang, tỉnh lỵ là Thành phố Cần Thơ.
Đến tháng 12 năm 1991, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII trong kỳ họp thứ X đã ra Nghị quyết tách tỉnh Hậu Giang thành hai tỉnh Cần Thơ và Sóc Trăng.
Năm 2003, Nghị quyết số 21/2003 của Bộ Chính trị, Nghị quyết 22 kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XI đã chia tách tỉnh Cần Thơ thành Thành phố Cần Thơ và tỉnh Hậu Giang. Theo các Nghị quyết này, địa giới hành chính Thành phố Cần Thơ lại thay đổi. Thành phố Cần Thơ hiện nay gồm 7 quận, huyện, 67 xã, phường và thị trấn. Đó là các quận Ninh Kiều, quận Bình Thủy, quận Cái Răng, quận Ô Môn, huyện Phong Điền, huyện Cờ Đỏ, huyện Thốt Nốt, với tổng diện tích toàn thành phố là 138.959,99 ha, và dân số là 1.121.141 người[3].
Như vậy, Cần Thơ trong tiến trình khai khẩn vùng đất Nam Bộ đã trải qua những lần chia tách và đổi tên như sau: Trấn Giang (1739), Phong Phú (1840), Cần Thơ (1876), Phong Dinh (1956), Hậu Giang (1976), Cần Thơ (1991), Thành phố Cần Thơ (2003).
[1] Huỳnh Lứa: Cần Thơ - Lịch sử và phát triển. Tạp chí Xưa và Nay, số 79B, tháng 9 - 2000.
[2] Huỳnh Lứa: Tlđd.
[3] Số liệu thống kê năm 2003 của CụcThống kê tỉnh Cần Thơ.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét