Thứ Hai, 19 tháng 1, 2009

CHÙA HOA Ở CẦN THƠ

Chùa Ông (bến Ninh Kiều - TP. Cần Thơ)


QUÁ TRÌNH ĐỊNH CƯ
CỦA NGƯỜI HOA Ở
CẦN THƠ

Trần Phỏng Diều

Cần Thơ cũng như các tỉnh thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đất mới, quá trình hình thành vùng đất này chỉ trên dưới ba trăm năm, kể từ những bước chân đầu tiên của lưu dân vào khai khẩn vùng đất hoang Nam Bộ. So với các tỉnh khác trong khu vực, lịch sử hình thành vùng đất Cần Thơ có phần muộn màng hơn. Nhưng trong tương quan giữa các địa phương trong khu vực, Cần Thơ vẫn có những vị thế vững vàng về các mặt: văn hóa, chính trị, kinh tế, quân sự... Và đặc biệt, từ lâu, Cần Thơ đã được xác định là trung tâm của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, với tên gọi Tây Đô - với ý nghĩa, thủ đô của khu vực miền Tây Nam Bộ. Qua nhiều lần chia tách, có thể xác định, Cần Thơ được định hình với một tư thế đĩnh đạc đường hoàng trên dư đồ là vào năm 1739, với tên gọi lúc bấy giờ là Trấn Giang.
I. VÀI NÉT VỀ CÔNG CUỘC KHẨN HOANG Ở NAM BỘ VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÙNG ĐẤT TRẤN GIANG
Ai về thăm Bắc ta về với
Thăm lại non sông giống Lạc Hồng
Từ độ mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long
Ai nhớ người chăng? Ơi Nguyễn Hoàng
Mà ta con cháu mấy đời hoang
Vẫn nghe trong máu buồn xa xứ
Non nước Rồng Tiên nặng nhớ thương.
(Nhớ Bắc - Huỳnh Văn Nghệ)
Những khám phá khảo cổ học trên vùng đất Nam Bộ cho biết rằng, cách đây khoảng 4000 năm, vùng đất Nam Bộ này đã có con người cư trú và hoạt động trên một địa bàn rộng lớn. Tuy nhiên, lớp cư dân này chủ yếu cư trú ở vùng cao - vùng Đông Nam Bộ, còn vùng Đồng bằng sông Cửu Long cho mãi đến thế kỷ đầu công nguyên mới có những lớp người bắt đầu đến cư trú ở vùng tứ giác Long Xuyên, mà trước hết là vùng Óc Eo - Ba Thê. Lớp cư dân này trong quá trình chinh phục và khai phá vùng đất ở đây bắt đầu ổn định cuộc sống và dần dần hình thành những vùng đô thị ở cảng Óc Eo - Ba Thê. “Óc Eo là một hải cảng của đế đô vương quốc Phù Nam (tên là yadhapura - đô thị của các nhà săn bắn) nằm gần đồi núi Bathnom và gần xã Banam ở trong tỉnh Prêy Veng của Campuchia ngày nay. Vương quốc Phù Nam là một nước nằm trên đường nối Ấn Độ với Trung Quốc (...) Nước này tồn tại từ thế kỷ II đến khoảng đầu thế kỷ VII (thời phồn thịnh từ thế kỷ III đến thế kỷ V ) đã chiếm cả một vùng đất rộng lớn từ Đồng bằng sông Cửu Long đến Nam Trung Bộ, sang cả vùng trung lưu sông MêKông, qua thung lũng sông Mênam và xuống tận bán đảo Mã Lai”
[1]
Như vậy, vương quốc Phù Nam tồn tại được trong vòng 6 thế kỷ thì bắt đầu suy tàn, thay vào đó là vương quốc Chân Lạp. Cho mãi đến thế kỷ XVI, vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã hoàn toàn trở thành vùng đất thủy Chân Lạp. Trong giai đoạn này, người Khơme vẫn là lớp người cư trú đầu tiên và chủ yếu, nhưng với số lượng rất ít ỏi, phần lớn sống rải rác ở các dải đất giồng, không thích hợp với việc sinh sống bằng nghề trồng lúa nước. Cho nên, về cơ bản, trong giai đoạn này, Đồng bằng sông Cửu Long vẫn còn là vùng đất hoang vu. Điều này đã được Châu Đạt Quan - một sứ thần của triều đình nhà Nguyên (Trung Quốc) ghi lại trong Chân Lạp phong thổ ký, khi ông được cử sang kinh đô Ăngco để ban giao với vua nước Chân Lạp lúc bấy giờ là Xadravácman: “Bắt đầu vào Chân Bồ (vùng biển Vũng Tàu ngày nay), gần hết cả vùng đều là bụi rậm của rừng thấp, những cửa rộng của con sông lớn trải dài hàng trăn dặm, bóng mát um tùm của những gốc cổ thụ và cây mây dài tạo thành nhiều chỗ trú sum suê... Khắp nơi vang tiếng chim hót và tiếng thú kêu. Vào nửa đường trong sông, thấy những cánh đồng hoang không một gốc cây. Xa nữa, tầm mắt chỉ thấy toàn cỏ cây đầy rẫy. Hàng trăm, hàng nghìn trâu rừng tụ họp từng bầy. Tiếp đó, nhiều con đường dốc đầy tre chạy dài hàng trăm dặm”
[2]. Tình trạng hoang vu đó còn kéo dài cho mãi đến sau này.
Từ thế kỷ XVII, vùng đất Nam Bộ nói chung, Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng bắt đầu đón nhận thêm những lớp cư dân mới, với những nền văn hóa mới đến đây cùng khẩn hoang và lập nghiệp. Lớp cư dân này phần lớn là những người buộc phải xa rời quê cha đất tổ để tìm con đường sống do tai họa chiến tranh giữa hai tập đoàn Trịnh - Nguyễn gây ra. Trong đó cũng có một số người là nông dân, thợ thủ công nghèo, những người tha phương kiếm sống, những tội đồ không chịu nỗi sự áp bức, bốc lột tàn bạo của giai cấp phong kiến. Khu vực định cư đầu tiên của những lưu dân này là vùng Mô Xoài (vùng Bà Rịa) và Đồng Nai (Biên Hòa và Sài Gòn).
Trong lớp cư dân mới đến vùng Đồng bằng sông Cửu Long vào cuối thế kỷ XVII, còn có một số người Hoa từ các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến (Trung Quốc), mà phần đông là quan, quân nhà Minh không chịu thần phục triều đình Mãn Thanh. “Mùa hè, tháng 5, quan Tổng binh trấn thủ Long môn Dương Ngạn Địch và phó tướng Hoàng Tiến; quan Tổng binh trấn thủ Cao, Lôi, Liêm là Trần Thượng Xuyên và phó tướng Trần An Bình đem binh thuyền và gia quyến trên 3000 người và 50 chiếc thuyền vào hai hải cảng Tư Hiền và Đà Nẵng. Họ tâu xin làm thần bộc nước ta. Họ được như ý và được chỉ định vào định cư trên đất Đồng Nai và Mỹ Tho”
[3]. Đến với Đồng bằng sông Cửu Long vào cuối thế kỷ XVII còn có thêm một lực lượng “phản Thanh phục Minh” khác, đó là lực lượng do Mạc Cửu cầm đầu. Mạc Cửu là người Châu Lôi, tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc). Khác với nhóm Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch, Mạc Cửu đến Lục Chân Lạp trước, đến vùng Đồng bằng sông Cửu Long sau. “Bấy giờ có viên di tướng nhà Minh ở Lôi Châu tên là Mạc Cửu, không chịu thần phục triều đình nhà Thanh, bỏ nước đem gia quyến sang tá túc ở Nam Vang, kinh đô Chân Lạp. Biết được tình hình ở Mang Khảm, Mạc Cửu bèn trưng mua thế, đem gia quyến tới ở Phương Thành và khai thác vùng này (...) Khi sắp xếp hành chính trong khu vực đã tương đối ổn định, dân chúng quy tụ về đã khá đông, tháng 8 năm Mậu Tý (1708) Mạc Cửu bèn sai thuộc hạ là Trương Cầu, Lý Xá dâng biểu văn trần tình lên Triều đình Phú Xuân, xin hiến đất Hà Tiên cho Đại Việt và xin được làm quan trưởng xứ ấy. Chúa Hiển tông Hiếu Minh hoàng đế Nguyễn Phúc Chu chấp thuận và sắc cho Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên, tước Cửu Ngọc hầu”[4]. Ngoài ra, khoảng thế kỷ XVIII, vùng đất này lại đón thêm một số lớn người Chăm đến đây sinh sống.
Cuộc sống cộng cư của các dân tộc, mà thành phần người Việt là chủ yếu giữa vùng đất hoang vu, đầy khắc nghiệt đã tạo nên sự đoàn kết, hòa thuận giữa các dân tộc anh em. Tất cả cùng chung sức khai phá vùng đất hoang Đồng bằng sông Cửu Long với quy mô ngày càng lớn. Biến vùng đất hoang vu, rừng rậm này trở thành những xóm làng đông đúc, ruộng đồng phì nhiêu, xây lộ, đắp cầu, dần dần hình thanh chợ búa, thị tứ và từ đó trung tâm dân cư cũng được thiết lập. Cuộc sống của cư dân lúc bấy giờ chủ yếu là các nghề làm ruộng muối, chài lưới, đánh bắt thủy hải sản, lên rừng đốn củi, lấy mật ong, săn thú...
Khoảng thế kỷ XVIII, lưu dân người Việt cũng bắt đầu đến định cư và tiến hành khai khẩn ở hai bờ vàm cỏ Tây, bờ bắc sông Tiền bao gồm: Cai Lậy, Gò Công rồi tiến dần đến vùng Đồng Tháp Mười, Khu tứ giác Long Xuyên. Vùng bờ nam sông Tiền thì bao gồm các khu Cái Mơn, Cái Nhum, Sa Đéc cho đến Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng... Có thể tóm lược công cuộc khẩn hoang và Nam tiến của dân tộc qua các thời điểm sau: Mô Xoài, Đồng Nai (1658); Gia Định (1698); Hà Tiên (1714); Mỹ Tho, Long Hồ (1731); Long Xuyên, Kiên Giang, Trấn Giang, Trấn Di (1739); Tầm Bôn, Lôi Lạp (1756); Trà Vang, Ba Thắc (1757).
Như vậy, Trấn Giang (Cần Thơ) vào khoảng thế kỷ XVIII về cơ bản vẫn còn là vùng đất đầm lầy, nê địa, rừng rậm hoang vu, thú dữ tràn đầy.


[1] Thạch Phương - Hồ Lê - Huỳnh Lứa - Nguyễn Quang Vinh: Văn hóa dân gian người Việt ở Nam Bộ. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nộ i- 1992. Tr. 26.
[2] Dẫn theo: Thạch Phương - Hồ Lê - Huỳnh Lứa - Nguyễn Quang Vinh, sđd. Tr. 28.
[3] Nguyễn Văn Hầu: Sự thôn thuộc và khai thác đất Tầm Phong Long. Tập san Sử Địa: Nam tiến của dân tộc Việt Nam. Khai Trí - 1970. Tr.6
[4] Nguyễn Đình Tư: Lịch sử thành lập tỉnh Kiên Giang. Tạp chí Xưa và Nay, số 226, tháng 12 - 2004.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét