
www.baoanhdatmui.vn/.../2/dm334/6/P6-7-334-1.jpg
TỪ BA YẾU TỐ NỀN TẢNG
CỦA VĂN HÓA NAM BỘ
ĐẾN CA DAO
TS. TRẦN VĂN NAM
(Ba yếu tố nền tảng của văn hoá Nam bộ (2004), báo Văn Nghệ (Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật T.P Hồ Chí Minh), số 5-2004)
Từ đầu thế kỷ XVII, người Việt bắt đầu khai hoang vùng đất mới, vùng đất thuộc Phủ Gia Định tức Nam bộ ngày nay. Nam bộ là một vùng văn hóa với các yếu tố nền tảng sau đây.
Nam bộ trước hết là vùng "văn minh của cây lúa". Ở đây, chúng tôi không có ý đề cập đến " một phức thể văn hóa nông nghiệp " với nghĩa chặt chẽ của nhóm từ nầy mà chỉ nêu lên một vài cứ liệu khẳng định sự tồn tại và vai trò của cây lúa ở Nam bộ. Nhiều tài liệu về lịch sử, văn hóa Nam bộ đều cho rằng từ cuối thế kỷ XVIII, xứ Đàng Trong đã là một vựa lúa lớn và bắt đầu xuất khẩu gạo sang một số nước trong khu vực. Khi chiếm Nam kỳ làm thuộc địa, người Pháp đã biết phát huy lợi thế nầy, và họ đã thành công trong việc biến nơi đây thành một vùng nông nghiệp thương phẩm. Biên bản về cuộc họp ở Sài Gòn năm 1874 giữa thương nhân người Âu và người Hoa nhằm chỉnh đốn thị trường lúa gạo đã chứng minh điều nầy. Biên bản còn đề cập đến các loại gạo xuất khẩu thời kỳ đó là gạo Gò Công ( gạo tròn ), gạo Vĩnh Long ( gạo dài ) và gạo Pye - chow (theo Hoàng Trang-Hoàng Anh, Xưa & Nay 3/97). Được biết , giống lúa - gạo Nam bộ thời đó rất phong phú , trong số vài chục giống lúa có tên chữ đầu là nàng thì nàng thơm Chợ Đào ( thuộc Long An ngày nay ) nổi tiếng ngon cơm. Ca dao Nam bộ cũng đã ghi nhận một giống lúa trong nhóm nầy: " Cám ơn hạt lúa nàng co , nợ nần trả hết lại no trong lòng "
Nam bộ là nơi phát sinh nền "văn minh miệt vườn ": "Ông kỳ lão già trên bảy mươi tuổi, nếu sanh trưởng ở Cái Bè, ở Tam Bình, ở Sa Đéc thì đã là một pho tượng " văn minh miệt vườn " bằng xương bằng thịt " (theo Sơn Nam- Văn minh miệt vườn). Vườn ở Nam bộ xuất hiện sớm và phát triển nhanh, qui mô rộng lớn và thường trồng cây chuyên canh: bưởi Biên Hòa ( miền Đông Nam bộ ), xoài Cao Lãnh ( miền Tây Nam bộ )... Công việc làm vườn có những công đoạn , những kỹ thuật canh tác mà kinh nghiệm của người làm ruộng không đủ đáp ứng yêu cầu sản xuất . Hơn nữa, việc trồng cây ăn trái trên vùng đất trũng là một thách thức buộc phải vượt qua để tồn tại. Chẳng hạn, đó kỹ thuật khai mương lên liếp vừa để chống úng vừa để có nước tưới cây quanh năm. Khi vét mương, thì bùn ( do phù sa lắng đọng ) là phân bón cây rất tốt. Bên cạnh đó, kỹ thuật ươm cây, ghép và chiết cành ảnh hưởng quan trọng đến năng suất... Công việc ở vườn quanh năm nhưng không bị thời vụ thúc bách như việc trồng lúa mùa. Do vậy nhịp sống có vẻ như ngưng đọng trong mỗi con người. Việc tiêu thụ trái cây, nghề ươm bán con giống chuyên nghiệp, mua phân bón, gạo từ các vùng khác... là một trong những biểu hiện của nền kinh tế hàng hóa đã sớm hình thành. Nền kinh tế hàng hóa trong một chừng mực nào đó đã sớm giải phóng con người thoát khỏi nền kinh tế tự cấp tự túc, mặt khác, có tác dụng đẩy mạnh quá trình giao lưu văn hóa. Thực tế đã chứng minh, miệt vườn thường gợi lên ý niệm về một đời sống yên bình, nhàn hạ và sung túc.Vườn là thứ tài sản bảo đảm cho cuộc sống hạnh phúc trong tương lai của đôi vợ chồng trẻ. Do vậy vườn là thứ sính lễ của chàng trai thực lòng yêu thương cô gái:
Chuồn chuồn bay thấp nước ngập ruộng vườn.
Nghe lời nói lại càng thương,
Thương em anh muốn lập vườn cưới em.
Nam bộ là vùng " văn minh kênh rạch ". Trên các vùng lãnh thổ Việt Nam , Nam bộ mà đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long nhiều sông rạch hơn cả. Văn hóa Nam bộ chịu sự tác động của môi trường sông nước nầy. Môi trường sông nước là nhân tố khá quan trọng tác động đến phong tục, tập quán, nhận thức, sinh hoạt gia đình, sinh hoạt lao động... nói chung là tác động đến nhiều khía cạnh văn hóa khác nhau của cư dân. Chẳng hạn, đám cưới ở đồng bằng sông Cửu Long thường đưa dâu bằng ghe:
Đưa dâu thì đưa bằng ghe,
Chớ đưa bằng bè ướt áo dâu đi.
Do có nhiều dòng chảy nên giao thông đường thủy cực kỳ quan trọng đối với cư dân thời kỳ đầu khai hoang trải qua mấy thế kỷ cho tới ngày nay. Tiếp theo là sinh hoạt đời sống trên sông nước gắn với ghe, xuồng : ghe làm nhà ở, ghe đưa đò, xuồng câu...
Có thể đặt ra câu hỏi, tại sao ở Nam bộ lại tồn tại một nền văn hóa sông nước
với những biểu hiện phong phú đa dạng hơn Bắc bộ trong khi Bắc bộ cũng có hệ thống sông ngòi không phải là ít. Nhiều người thường nêu nguyên nhân của nền văn hóa sông nước bằng thực tế địa lý. Đó là Nam bộ có hệ thống sông ngòi, kênh rạch dày đặc. Điều nầy đúng nhưng chưa đủ. Về mặt thủy học, sông ngòi Nam bộ theo chế độ bán nhật triều, nghĩa là trong một ngày (24 giờ) có hai lượt con nước lớn ròng. Ví dụ, từ 6 giờ sáng, nước sông, kinh, rạch bắt đầu lớn (nước dâng lên) đến 12 giờ thì nước lớn đến đỉnh điểm (nước đầy). Khi đã đầy rồi nước bắt đầu ròng (nước xuống), nước xuống tới đỉnh điểm gọi là ròng sát (khoảng 6 giờ chiều). Như vậy, từ 6.30 giờ chiều nước bắt đầu lên trở lại và chu kỳ sau thường trễ hơn chu kỳ trước 30 phút. Khi nước lớn thì dòng nước chảy theo chiều ngược lại của nước ròng. Qui luật nầy hết sức quan trọng, ảnh hưởng đến sinh hoạt vùng sông nước và ảnh hưởng tới kinh tế người dân. Người dân sẽ đi lại, vận chuyển hàng hóa theo con nước, chẳng hạn, khi đi nước lớn khi về nước ròng thì cả hai lượt đều đi nước xuôi cho nên việc chèo xuồng ghe không quá nặng nhọc như cư dân Bắc bộ. Chẳng hạn, nước sông Hồng, sông Đà chảy xiết khi đi xuôi nước cũng không phải dễ dàng (như Nguyễn Tuân nói trong Người lái đò sông Đà) khi đi ngược nước thì quá vất vả, nặng nhọc. Ỏ Nam bộ, nơi trao đổi hàng hóa, nơi họp chợ thường là những nơi giáp nước. Hai con kinh cùng đổ nước vào con kinh thứ ba ở hai đầu mỗi độ nước lớn, khi hai dòng chảy nầy gặp nhau thì nước không chảy được nữa. Chỗ gặp nhau đó gọi là chỗ giáp nước. Cư dân khi đi ngang qua con kinh nầy thường dừng lại chỗ giáp nước để chờ nước xuôi (nước đổi chiều ở cả hai nguồn) rồi mới đi tiếp lộ trình, hoặc đi trở về. Mấy đặc điểm nêu trên cho thấy, khi nắm được qui luật vận hành của dòng nuớc thì việc dùng các phương tiện giao thông thủy là hết sức tiện lợi. Thêm vào đó, thời kỳ đầu khai hoang các dòng chảy tự nhiên có sẵn trong khi đường bộ thì không thể làm ngay được. Nền văn hóa sông nước, do vậy, hình thành và phát triển vững chắc ở Nam bộ.
Những đặc điểm văn hóa nêu trên có ảnh hưởng đến văn hóa dân gian nói chung , văn học dân gian Nam bộ nói riêng . Truyện địa danh , truyện về sấu , truyện về cọp , truyện Ba Phi phản ánh khá rõ nét đất nước và con người Nam bộ , mặt khác là biểu hiện sinh động của sự tác động của môi trường địa lý , xã hội , văn hóa vào văn học dân gian . Ca dao - dân ca với những điệu hò trên sông nước , những điệu lý chứa đầy những hình ảnh sông nước , miệt vườn , phản ánh cảnh hoang vu của vùng đất mới cùng với hình ảnh người đi khai hoang . Cũng có thể tìm thấy tính cách Nam bộ trong bộ phận văn học dân gian nầy . Nam bộ thật sự là một vùng văn học dân gian , một nét riêng trong sự thống nhất mà đa dạng của văn học dân gian cả nước .
Về đại thể văn hóa Nam bộ có hai đặc điểm đáng chú ý , đó là những yếu tố văn hóa mới so với văn hóa truyền thống và sự hỗn dung văn hóa.
Về đặc điểm thứ nhất , trong quá trình ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội những yếu tố văn hóa mới hình thành như là sự tiếp nối cái cũ trong điều kiện mới. Xin nêu vài ví dụ về những yếu tố văn hóa mới : Người Nam bộ trồng lúa theo kiểu quãng canh , nghĩa là gieo hạt trên một diện rộng , lấy số lượng bù vào năng suất . Tập quán dùng ghe làm nhà ở khá phổ biến tại vùng sông nước đồng bằng sông Cửu Long.Ngôi nhà lá cũng là sản phẩm của quá trình tận dụng môi trường tự nhiên . Nhà được lợp mái bằng lá dừa nước , một loại dừa trái nhỏ , lá dài mọc hoang ven sông , rạch rất nhiều . (Ngày nay , dừa nước được trồng trong khu vực kênh , mương đất nhà một mặt để chống xoáy mòn , một mặt để làm kinh tế phụ : lấy lá dừa chằm thành một loại lá lợp hàng hóa) . Hệ thống cầu khỉ giản đơn ( làm bằng các loại cây thân mộc có trong vườn ) bắc qua kênh , mương tạo thành một thứ công trình giao thông nông thôn đặc thù của Nam bộ. Đạo Hòa Hảo , tên gọi chính thức là Phật giáo Hòa Hảo , một mặt là hiện tượng hỗn dung văn hóa ( kế thừa đạo Bửu Sơn Kỳ Hương , kết hợp tư tưởng Phật giáo với tín ngưỡng thờ ông bà ) một mặt là yếu tố văn hóa mới trên nền của những yếu tố văn hóa truyền thống ( là đạo Phật được bình dân hóa ). Đạo Hòa Hảo ra đời ở làng Hòa hảo ( thuộc tỉnh An Giang ) vào những năm 30 của thế kỷ XX , đề cao Tứ ân , khuyến khích tín đồ tu tại gia theo pháp môn tịnh độ , vốn là một tông phái Phật giáo phổ biến trong giới bình dân .
Đặc điểm thứ hai là quá trình giao lưu văn hóa đa phương diễn ra nhanh chóng liên tục tạo nên sự hỗn dung văn hóa . Trước hết , đó là sự hỗn dung văn hóa giữa những người Việt , vốn là cư dân của nhiều vùng , miền khác nhau tụ họp về Nam bộ trong quá trình khai phá . Thứ hai là sự giao lưu văn hóa giữa các tộc người cùng chung sống . Thứ ba là sự giao lưu văn hóa giữa Nam bộ với phương Tây diễn ra khá sớm và với các dân tộc Đông Nam Á từ thế kỷ XVII (cơ tầng văn hóa Đông Nam Á cổ của nền văn hóa Việt Nam có thể xem là vấn đề phổ quát hơn ). Ngôn ngữ của người Việt Nam bộ có sự vay mượn của tiếng Pháp , tiếng Hoa và tiếng Khmer .Chẳng hạn , từ quen thuộc trong tiếng Việt, "xuồng ",lại là từ gốc Hoa.Người Nam bộ sử dụng đồng thời ba từ thuộc tiếng Việt , Hoa , Khmer để chỉ hiện tượng say rượu : say , xỉn , xà quần .Địa danh Nam bộ bên cạnh những từ mang màu sắc bác học của văn hóa truyền thống với yếu tố long như Vĩnh Long , Tân Long , Long Châu , Long tuyền...còn có những địa danh có nguồn gốc Khmer , những địa danh là sự kết hợp giữa tiếng Việt và tiếng Khmer như cầu Mây Tức (tức, trong tiếng Khmer nghĩa là nước ).Đây là một biểu hiện dễ thấy bên cạnh nhiều biểu hiện khác nhau của sự giao lưu văn hóa như ẩm thực (người Việt ăn món canh chua của người Khmer, món cà ri gà của người Ấn , món lẩu của người Hoa...) mặc và trang sức ( người Việt mặc áo bà ba có nguồn gốc từ Mã Lai ...) , lễ hội ( cả người Việt và người Khmer đều tham gia lễ hội đua ghe ngo) tín ngưỡng (người Việt cũng sùng bái Ông Tà - Niet Tà - thần đất của người Khmer)...
Đạo Cao Đài là một trường hợp khá tiêu biểu cho hiện tượng hỗn dung văn hóa ở Nam bộ. Đạo Cao Đài ( tên chính thức là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ) hình thành từ những năm 20 của thế kỷ XX , có Tòa Thánh lớn nhất ở Tây Ninh với giáo lý tổng hợp của Nho , Phật ,Lão cùng với một số luồng tư tưởng phương Tây . Trong Thánh thất của đạo Cao Đài , cùng với Thiên nhãn còn có Phật , Khổng Tử...Sự giao lưu đa phương dẫn đến hiện tượng hỗn dung văn hóa như vậy là một trong những yếu tố làm nên tính phóng khoáng của người Việt Nam bộ trong quan hệ xã hội, trong nếp sống và suy nghĩ. Bởi vì, để cùng chung sống với nhau, người ta đã chấp nhận những nét dị biệt , không kỳ thị nhau .
Văn hóa Nam bộ là vấn đề rất rộng. Nó chính là văn hóa Việt Nam trên một vùng đất. Trong bài viết nầy chúng tôi cố gắng trình bày một vài biểu hiện của nền văn hóa miệt vườn và văn hóa sông nước, trong đó đặc điểm đáng chú ý là tính chất hỗn dung văn hóa. Chính những yếu tố nền tảng nầy đã chi phối một cách sâu sắc đến quá trình hình thành cũng như những đặc điểm nội dung và thi pháp của văn học dân gian Nam bộ nói chung, ca dao nói riêng.
Tài liệu tham khảo.
Chu Xuân Diên (2002), Cơ sỏ văn hóa Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.