Thứ Bảy, 24 tháng 1, 2009

TỔNG KẾT HOẠT ĐỘNG NĂM 2008

(TS Trần Văn Nam Phân hội trưởng Phân hội VHDG phát biểu khai mạc tổng kết)
(Các hội viên nhận bằng khen của TW Hội Văn học dân gian Việt Nam)



Ngày 22 tháng 1 năm 2009 ( nhầm ngày 27 tết Kỷ Sửu 2009) Phân hội Văn học Dân gian trực thuộc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật TP. Cần Thơ đã tổ chức buổi lễ tổng kết hoạt động của phân hội trong năm vừa qua 2008 tại văn phòng Liên hiệp Hội (170 Lý Tự Trọng, TP. Cần Thơ). Tham dự buổi lễ có đông đủ hội viên Phân hội Văn học dân gian và một số khách mời. Trong diễn văn phát biểu khai mạc buổi lễ Tiến sĩ Trần Văn Nam phân hội trưởng Phân hội Văn học Dân gian đã phát biểu đánh giá một số hoạt động nổi bật của phân hội trong năm vừa qua. Nhìn chung hoạt động của phân hội Văn học dân gian khá nổi bật, ngoài hai chuyến đi thực tế, một do phân hội tổ chức đi tập thể tại Hòn Tre, còn có một đợt đi thực tế trong phạm vi địa phương theo từng tổ nhóm do phân hội hỗ trợ kinh phí (mỗi người 500 ngàn đồng) đã thu được nhiều kết quả khả quan. Đặc biệt tác phẩm tập hợp các bài vở của anh em hội viên trong năm 2008 đã nhận được giải khuyến khích của TW Hội Văn học dân gian Việt Nam. Tới đây, năm 2009 Phân hội sẽ tổ chức một chuyến đi thực tế tại miền Đông và in ấn tác phẩm chủ đề: “Các phong tục tết ở Đồng bằng Sông Cửu Long”.

Thứ Sáu, 23 tháng 1, 2009

VÈ THẾ SỰ


(hỏi cung - ảnh tư liệu xưa)



(ăn cắp bị phạt đòn - ảnh tư liệu xưa)


BÀI VÈ CỦA MÁ TÔI

* NGUYỄN TRUNG NGUYÊN

Ngay từ khi tôi còn nhỏ xíu, đã nghe má đọc mấy câu vè này rồi. Nhất là những lúc nhà thắt ngặt, thiếu thốn thì hai câu: “Bạc không cánh bay đâu chẳng biết. Vàng không chân mấy chiếc cũng không còn…” lại được má tôi lập đi, lập lại khiến mấy anh em tôi thuộc lòng từ hồi nào chẳng biết. Sau này, lớn lên chút đỉnh có lần tôi hỏi: “Sao má đọc mấy câu đó hoài vậy? Hoàn cảnh nhà mình bây giờ cũng đỡ rồi mà”. – “Tại con hổng biết, chớ đây là bài vè kinh tế mà má thuộc lòng từ hồi nhỏ…”. Thấy lạ lạ tôi đã nhờ má đọc cho tôi chép lại cả bài, có thể không chính xác từng chữ nhưng với một bà lão trên 70 tuổi, việc đọc thuộc lòng cả 94 câu của bài vè là đã quá tốt rồi dù cũng phải cả một tuần lễ mới xong. Qua sự việc này tôi chợt nhận ra một điều đó là sức sống mảnh liệt cũng như ảnh hường sâu rộng của “vè”, một loại hình văn học dân gian rất phổ biến ở nông thôn Việt Nam xưa.



Vè Kinh tế

Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè kinh tế
Ngồi suy nghĩ xem trong cuộc thế
Thấy nhân dân kinh tế mà thương
Chẳng qua là Nam Việt vô Vương thảm thiết
Bạc không cánh bay đâu chẳng biết
Vàng không chân mấy chiếc cũng không còn
Mấy năm sau lại hao mòn
Mùa màng thất bát lính còn bắt buột
Thương hại cho lê dân đứt ruột
Đã lâm nguy lại gặp thêm cảnh ngặt nghèo
Thảm cho vợ con đói rách đùm đeo
Trốn bờ bụi mã tà còn kiếm bắt
Có gan đồng dạ sắt
Cũng rơi nước mắt một khi
Sách có chữ “Thố tử Hồ bi”
Vật còn biết thương vật
Huống chi người chẳng tưởng

Đại Pháp cầm quyền chấp trưởng
Tưởng đâu Nam kỳ
Vui hưởng thái bình
Một lần bão lụt năm Thìn
Đã hao tốn xứ mình vô hạn
Mùa màng thất bát
Giá lúa đồng sáu, đồng ba
Một đầu thuế tính ra là năm giạ
Qua năm Tuất điềm trời cũng lạ
Giá lúa sụt một giạ còn hai cắc ngoài
Biết làm sao đóng nổi lá bài
Đi làm mướn tối ngày có một cắc mấy

Mấy năm trước cũng nhờ lúa mắc
Lại bán đắt mua may
Hà cờ gì cho đến năm nay
Đồ vật thực rẻ thôi vô số
Chệt bán buôn bỏ phố trốn về Tàu
Ghé mà coi mấy cậu nhà giàu
Ngó bảnh bao mà anh nào cũng mua chịu

Lập bộ đất cắn răng mà chịu
Lỡ chân rồi khó liệu, khó lo
Dòm nhà nào cũng bữa đói, bữa no
Nhổ bông súng, móc củ co cũng còn dễ thở
Lúc túng cùng bán xài cũng đỡ
Khỏi lo thiếu nợ, thiếu nần
Sách có chữ “tiểu phú do cần”
Lại có chữ “thanh bần vô hại”
Dĩa dưa, dĩa muối
Đạm bạc cơ hàn
Xịch xạc lều tranh
Mặc ai đục cò trục lợi kinh doanh
Tham cho thái quá
Đi ngang về tắt

Chuyện thời thế, thế thời
Càng ngày càng gắt
Đường vinh nhục đổi thay một lát
Trời lại khiến cho nhân dân đói khát
Bảy ngày đầu năm tiếng pháo vắng teo
Ba mươi tết chẳng thấy ai mần heo cúng kiến
Lại có ít người đến viếng ông bà
Giấy áo quần, vàng bạc, nhang trà
Tiền đâu có mà lo đơm oải
Nhớ hồi nẵm tiền còn rộng rãi
Giàu thì nhiễu nho
Nghèo cũng bô vải cho vợ con
Nay gạo đong từ lon, từ lít
Vui sướng gì mà sắm món ngon vật lạ
Nhiều người lệ hạ tuôn rơi

Một năm trời bảy bữa ăn chơi
Cũng không đặng thảnh thơi, thong thả
Chồng mang lưới
Vợ mang chài
Con quần vá
Áo còn bâu
Quần còn lưng
Cũng ráng lo cuốc bẫm cày sâu làm rẫy bái
Than ôi!
Khoai không củ
Cải đỏ nghen còi cọc mọc ngồng
Phải tưới nước vun phân
Trăm bề vất vả
Công cấy, công cày
Lúa nở bụi bắp chân
Ai ai cũng vui cười hớn hở
Có ngờ đâu tiết trời tráo trở
Nước 30 tháng 9 hết chừng
Đi trên bờ lộ phải xăn quần tới háng
Chòi trại ngập sàng trôi ván mất tăm
Ngó ra đồng ra ruộng tợ biển đông
Tội nghiệp kẻ canh nông
Tấm lòng héo hắt

Trong làng tổng người người xốn mắt
Bọn Hội tề, quan Chánh lớn
Động lòng chắc lưỡi lắc đầu
Thế này qua năm tới lúa đâu mà nộp

Nhà nước hết lòng bảo hộ nhân dân!

(Ghi lại theo trí nhớ của bà Nguyễn Thị Ảnh, sinh năm 1931, hiện ngụ tại P. Trường Lạc, Q. Ô Môn, TP. Cần Thơ)

Má tôi còn nói bài vè này của ông Năm Của người làng Rạch Cam, Long Tuyền được truyền miệng rộng rải vào khoảng thập niên 30 thế kỷ trước tại làng Tân Thới, Phong Phú, Phong Dinh. Đọc kỹ lại bài vè và nghiên cứu thêm tài liệu tôi có được một số hiểu biết cũng không kém phần thú vị.
Trong Ðại Nam quốc âm tự vị, vè là chuyện khen chê có ca vần và việc sáng tác vè nói nôm na là đặt chuyện khen chê có ca vần. Ðịnh nghĩa này còn đơn giản, nhưng đã nêu được những đặc trưng cơ bản của vè. Nó chính là thể loại tự sự dân gian bằng văn vần, chủ yếu nhằm phản ánh kịp thời và cụ thể những chuyện về người thật, việc thật ở từng địa phương, những sự kiện có ý nghĩa trong đời sống nhân dân.
Vè có từ bao giờ? Chưa có cơ sở xác định nhưng người ta biết rằng vè nảy sinh chủ yếu trong thời kỳ phong kiến và phát triển nhất trong thời kỳ cận đại ở các thế kỷ XVIII, XIX, XX. Sự xuất hiện của vè là một bước tiến mới của văn tự sự dân gian. Vè xuất hiện để bổ sung cho lối kể truyện bằng văn xuôi một cách thể hiện mới có vần có nhịp, qua đó biểu hiện nội dung các vấn đề xã hội mà nhân dân muốn nêu lên.
Xã hội Việt Nam vào những năm 1936-1939, đa số nông dân không có ruộng đất, hoặc có ít ruộng, họ phải đi lãnh đất của địa chủ để cày cấy, hoặc đi làm thuê làm mướn. Đã khốn khổ về kinh tế, vật chất thiếu thốn lại còn bị nạn thiên tai bão lụt, dịch bệnh liên tiếp xảy ra. Năm 1937, nạn đói xảy ra ở khắp miền Bắc. Năm 1938 nạn đói xảy ra ở khắp ba miền ngay cả ở miền Nam như các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau, Rạch Giá, Cần Thơ, Châu Đốc, Long Xuyên người dân cũng bị đói khổ. Có thể bài “Vè kinh tế” nói trên xuất hiện vào khoảng thời điểm này, căn cứ vào nội dung mà bài vè truyền tải ta có thể xếp bài vè này vào nhóm “vè thế sự”.
Vè thế sự ghi nhận thực trạng đời sống nhân dân. Trong đó loại vè thế sự có giá trị hiện thực hơn cả là những bài đả kích ách thống trị của bọn thực dân, phong kiến. Từ những sự kiện cụ thể trong đời sống sinh hoạt, nhân dân bài vè đã cho người nghe thấy được những nguyên nhân xã hội dẫn đến cuộc sống khốn cùng. Nhìn chung, vè thế sự miêu tả rất sinh động cuộc sống nhân dân, phản ánh hiện thực xã hội nước ta dưới ách thống trị thực dân phong kiến.
Quay lại bài “Vè kinh tế” trong phần mở đầu:
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè kinh tế
Ngồi suy nghĩ xem trong cuộc thế
Thấy nhân dân kinh tế mà thương
Chẳng qua là Nam Việt vô Vương thảm thiết
Bài vè đã đi thẳng vào vấn đề, Nam bộ đã không còn “chủ quyền” mà nằm dưới quyền sinh sát của người Pháp. Điều này càng được khẳng định hơn ở các đoạn sau:
Đại Pháp cầm quyền chấp trưởng
Tưởng đâu Nam kỳ
Vui hưởng thái bình…
Để rồi kết thúc bằng cái nhìn hết sức chua chát và châm biếm sâu sắt:

Trong làng tổng người người xốn mắt
Bọn Hội tề, quan Chánh lớn
Động lòng chắc lưởi lắc đầu
Thế này qua năm tới lúa đâu mà nộp

Nhà nước hết lòng bảo hộ nhân dân!
Có những chi tiết trong bài “Vè kinh tế” mà khi đọc nó lại làm tôi liên tưởng đến một số tác phẩm văn học miêu tả bối cảnh xã hội lúc bấy giờ mà nhà văn Hồ Biểu Chánh là gương mặt tiêu biểu.

Mùa màng thất bát lính còn bắt buột
Thương hại cho lê dân đứt ruột
Đã lâm nguy lại gặp thêm cảnh ngặt nghèo
Thảm cho vợ con đói rách đùm đeo
Trốn bờ bụi mã tà còn kiếm bắt…
Phải chăng đây chính bức tranh tăm tối của kẻ cùng đinh mạt hạng Lê Văn Đó trong tác phẩm (Ngọn cỏ gió đùa), nghèo đến mức phải ăn trộm nồi cháo heo để cứu đói mẹ già và đàn cháu nhỏ, trải qua tù tội khổ ải.
Còn ở hai câu:
Dòm nhà nào cũng bữa đói, bữa no
Nhổ bông súng, móc củ co cũng còn dễ thở
Cũng đâu khác gì:
“cả nhà phải luộc rau cỏ mà ăn đỡ, chớ không có cháo mà ăn” (Ngọn cỏ gió đùa, trang 16). Cái đói đã làm tắt hẳn nụ cười hồn nhiên trên những gương mặt thơ ngây, lưu lại dấu tích thê thảm: “sắp nhỏ nhịn đói mặt mày vàng ẻo “( Ngọn cỏ gió đùa, trang 16).

Tác giả bài “Vè kinh tế”, một nghệ sĩ dân gian đã không bỏ qua chi tiết nào từ những cái rất chung, rất tiêu biểu đến những cái rất cụ thể mà hết sức chân thật như:
Một lần bão lụt năm Thìn
Đã hao tốn xứ mình vô hạn
Mùa màng thất bát
Giá lúa đồng sáu, đồng ba
Một đầu thuế tính ra là năm giạ
Qua năm Tuất điềm trời cũng lạ
Giá lúa sụt một giạ còn hai cắc ngoài
Biết làm sao đóng nổi lá bài
Đi làm mướn tối ngày có một cắc mấy…
Hay:
Chệt bán buôn bỏ phố trốn về Tàu…
Chính là đề cập đến chủ trương sử dụng lá bài Hoa kiều của Nhà nước Pháp quốc lúc bấy giờ vì tư bản Hoa kiều là những kẻ có đủ sức mua những hàng hóa của Pháp để bán lại ở Việt Nam.
Hoặc:
Lập bộ đất cắn răng mà chịu
Lỡ chân rồi khó liệu, khó lo
Dòm nhà nào cũng bữa đói, bữa no
Nhổ bông súng, móc củ co cũng còn dễ thở…

Chính là cách làm bần cùng hóa nông dân của nhà nước bảo hộ khiến họ phải bán ruộng đất cho địa chủ với giá rẻ.
Nhìn chung, mỗi bài vè có giá trị nghệ thuật khá độc đáo riêng của nó. Phần lớn các bài vè có vận mệnh ngắn ngủi, thời gian cần thiết để đạt tới một hình thức hoàn chỉnh, trau chuốt ít có được. Thế nhưng, bài “Vè kinh tế” này đã sống gần một thế kỷ dù có thể chỉ một mình má tôi nhớ đến nó. Xin cám ơn má đã cho con hiểu thêm giá trị của một loại hình văn học dân gian cũng như một lần nhìn lại bức tranh ảm đạm của nhân dân ta dưới ách thống trị trong thời kỳ Pháp thuộc.


Thứ Tư, 21 tháng 1, 2009

CHÙA HOA Ở CẦN THƠ

(Chợ nổi Cái Răng - content.cantho.gov.vn)


(Bến Ninh Kiều ngày xưa - forum.ctu.edu.vn)



II. TRẤN GIANG SAU NHỮNG LẦN DIÊN CÁCH
VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÙNG ĐẤT CẦN THƠ
TRẦN PHỎNG DIỀU

Tình trạng hoang vu của vùng đất Trấn Giang có thể lý giải ở hai nguyên nhân sau: Thứ nhất: Trong suốt thời gian dài, các đời chúa Nguyễn và cho mãi đến sau này người Pháp đến xâm lược, vùng Trấn Giang lúc bấy giờ vẫn là vùng không quan trọng. Thứ hai, cả vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói chung, Trấn Giang - Cần Thơ nói riêng, ở giai đoạn này, đất rộng người thưa, không đủ cư dân để khai phá. Hơn nữa, Trấn Giang là vùng đất khai phá có phần muộn màng hơn các vùng khác ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, nên tình trạng hoang vu kéo dài là một điều dễ hiểu. “Thời Gia Long, vùng Cần Thơ chưa có nhiều người Việt đến định cư nên cả vùng cần Thơ rộng lớn chỉ mới hình thành một số làng như làng Tân An ở khu vực rạch Cần Thơ, làng Thới An ở vùng Ô Môn, làng Thới Thuận, làng Tân Thuận Đông ở vùng Thốt Nốt, làng Bình Thủy ở khu vực rạch Bình Thủy, làng Phú Mỹ ở khu vực rạch Cái Côn, mà làng này cách làng kia hàng chục cây số, nằm trên các vùng đất gò, đất giồng. Để hình dung rõ hơn tiến độ khai thác rất chậm của vùng Cần Thơ trong một thời gian dài từ năm 1737 đến hết thời Gia Long, chúng ta cần biết thêm một điều là: Vào thời Gia Long, vùng Cần Thơ, Ô Môn, Thốt Nốt nằm trong huyện Vĩnh Định (thuộc phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh), một huyện rộng lớn bao trùm cả phía hữu ngạn Hậu Giang, suốt từ biên giới Châu Đốc chạy dài xuống đến vàm Ba Thắc biển nam Hải, nhưng vì dân thưa nên cả huyện chỉ có 37 thôn và chưa phân ra thành tổng như ở miệt trên”
[1].
Từ năm Gia Long thứ 7 (1808) đến năm Minh Mạng thứ 20 (1839), Trấn Giang đã phải mấy lần được phân định lại địa giới và đổi tên. Khi thuộc phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh (Vĩnh Long ngày nay), khi thì thuộc phủ Tân Thành, rồi phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang. Năm Gia Long thứ 12 (1813), cắt đất phân ranh lại, lập thêm huyện Vĩnh Định, vẫn trực thuộc phủ Định Viễn, là vùng phì nhiêu nhất. Đến năm Minh Mạng thứ 20 (1839), Cần Thơ lại mang tên là huyện Phong Phú, thuộc phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang, gồm 3 tổng, 31 xã, thôn. Trong giai đoạn này, Cần Thơ phát triển có phần rực rỡ. Do Cần Thơ nằm ở trung tâm vị thế giao thương của các tỉnh miền Tây, nên năm 1868, khi Pháp đã chiếm ba tỉnh miền Tây Nam kỳ thì Cần Thơ là vùng trọng điểm của chính sách đẩy mạnh khai thác nông nghiệp để phục vụ xuất khẩu, nhằm thu lợi nhuận cho Pháp. Pháp tổ chức công cuộc đào kênh quy mô lớn, tạo thành một hệ thống kênh đào dày đặc nối Cần Thơ với Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá, nhằm giúp cho Pháp có điều kiện thuận lợi mở rộng nhanh chóng công cuộc khai thác đất đai. Dưới thời Pháp thuộc, Cần Thơ lại trải qua nhiều lần chia tách.
Ngày 01 tháng giêng năm 1868, Thống đốc Nam kỳ là Bonard quyết định sáp nhập huyện Phong Phú (Trấn Giang - Cần Thơ) với Bãi Sào (Sóc Trăng) đặt thành một quận, lập tòa bố tại Sa Đéc.
Ngày 23 tháng 2 năm 1876, Soái phủ Sài Gòn ra nghị quyết, lấy huyện Phong Phú và một phần huyện An Xuyên, Tân Thành để lập nên hạt Cần Thơ (arrondissement de Can Tho) với thủ phủ là Cần Thơ. Giai đoạn này, Cần Thơ đã thể hiện rõ vai trò của mình, là điểm trung chuyển quan trọng, nắm các con đường huyết mạch từ các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long lên Sài Gòn - Chợ Lớn. “(...) Tỉnh lỵ dời về rạch Cần Thơ thì chợ Cần Thơ trở thành địa điểm trung chuyển quan trọng nắm luôn con đường thông thương thứ hai cũng nối từ Hậu Giang qua Tiền Giang đi lên Sài Gòn - Chợ Lớn”
[2].
Sau Hiệp định Genéve năm 1954, đất nước ta tạm thời bị chia cắt. Lúc này, đế quốc Mỹ nhảy vào Việt Nam thay chân Pháp, phá hoại Hiệp định Genéve, dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm làm tay sai cho Mỹ, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Từ đó, địa giới hành chính trong chế độ cũ ở miền Nam nói chung, và tỉnh Cần Thơ nói riêng có nhiều thay đổi. Năm 1956, chính quyền Ngô Đình Diệm quyết định đổi tên tỉnh Cần Thơ thành tỉnh Phong Dinh. Năm 1961, tách một vùng đất ở Long Mỹ, Vị Thanh lập thành tỉnh Chương Thiện.
Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Nam Bắc thống nhất một nhà, giang sơn thu về một mối, chính phủ ta công bố Nghị định số 03/NĐ -76, ngày 24.3.1976, sáp nhập tỉnh Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ lập thành tỉnh mới lấy tên là Hậu Giang, tỉnh lỵ là Thành phố Cần Thơ.
Đến tháng 12 năm 1991, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII trong kỳ họp thứ X đã ra Nghị quyết tách tỉnh Hậu Giang thành hai tỉnh Cần Thơ và Sóc Trăng.
Năm 2003, Nghị quyết số 21/2003 của Bộ Chính trị, Nghị quyết 22 kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XI đã chia tách tỉnh Cần Thơ thành Thành phố Cần Thơ và tỉnh Hậu Giang. Theo các Nghị quyết này, địa giới hành chính Thành phố Cần Thơ lại thay đổi. Thành phố Cần Thơ hiện nay gồm 7 quận, huyện, 67 xã, phường và thị trấn. Đó là các quận Ninh Kiều, quận Bình Thủy, quận Cái Răng, quận Ô Môn, huyện Phong Điền, huyện Cờ Đỏ, huyện Thốt Nốt, với tổng diện tích toàn thành phố là 138.959,99 ha, và dân số là 1.121.141 người
[3].
Như vậy, Cần Thơ trong tiến trình khai khẩn vùng đất Nam Bộ đã trải qua những lần chia tách và đổi tên như sau: Trấn Giang (1739), Phong Phú (1840), Cần Thơ (1876), Phong Dinh (1956), Hậu Giang (1976), Cần Thơ (1991), Thành phố Cần Thơ (2003).


[1] Huỳnh Lứa: Cần Thơ - Lịch sử và phát triển. Tạp chí Xưa và Nay, số 79B, tháng 9 - 2000.
[2] Huỳnh Lứa: Tlđd.
[3] Số liệu thống kê năm 2003 của CụcThống kê tỉnh Cần Thơ.

Thứ Ba, 20 tháng 1, 2009

CA DAO NAM BỘ

www8.ttvnol.com/uploaded2/co/que.jpg




www.baoanhdatmui.vn/.../2/dm334/6/P6-7-334-1.jpg


TỪ BA YẾU TỐ NỀN TẢNG
CỦA VĂN HÓA NAM BỘ
ĐẾN CA DAO
TS. TRẦN VĂN NAM

(Ba yếu tố nền tảng của văn hoá Nam bộ (2004), báo Văn Nghệ (Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật T.P Hồ Chí Minh), số 5-2004)

Từ đầu thế kỷ XVII, người Việt bắt đầu khai hoang vùng đất mới, vùng đất thuộc Phủ Gia Định tức Nam bộ ngày nay. Nam bộ là một vùng văn hóa với các yếu tố nền tảng sau đây.
Nam bộ trước hết là vùng "văn minh của cây lúa". Ở đây, chúng tôi không có ý đề cập đến " một phức thể văn hóa nông nghiệp " với nghĩa chặt chẽ của nhóm từ nầy mà chỉ nêu lên một vài cứ liệu khẳng định sự tồn tại và vai trò của cây lúa ở Nam bộ. Nhiều tài liệu về lịch sử, văn hóa Nam bộ đều cho rằng từ cuối thế kỷ XVIII, xứ Đàng Trong đã là một vựa lúa lớn và bắt đầu xuất khẩu gạo sang một số nước trong khu vực. Khi chiếm Nam kỳ làm thuộc địa, người Pháp đã biết phát huy lợi thế nầy, và họ đã thành công trong việc biến nơi đây thành một vùng nông nghiệp thương phẩm. Biên bản về cuộc họp ở Sài Gòn năm 1874 giữa thương nhân người Âu và người Hoa nhằm chỉnh đốn thị trường lúa gạo đã chứng minh điều nầy. Biên bản còn đề cập đến các loại gạo xuất khẩu thời kỳ đó là gạo Gò Công ( gạo tròn ), gạo Vĩnh Long ( gạo dài ) và gạo Pye - chow (theo Hoàng Trang-Hoàng Anh, Xưa & Nay 3/97). Được biết , giống lúa - gạo Nam bộ thời đó rất phong phú , trong số vài chục giống lúa có tên chữ đầu là nàng thì nàng thơm Chợ Đào ( thuộc Long An ngày nay ) nổi tiếng ngon cơm. Ca dao Nam bộ cũng đã ghi nhận một giống lúa trong nhóm nầy: " Cám ơn hạt lúa nàng co , nợ nần trả hết lại no trong lòng "
Nam bộ là nơi phát sinh nền "văn minh miệt vườn ": "Ông kỳ lão già trên bảy mươi tuổi, nếu sanh trưởng ở Cái Bè, ở Tam Bình, ở Sa Đéc thì đã là một pho tượng " văn minh miệt vườn " bằng xương bằng thịt " (theo Sơn Nam- Văn minh miệt vườn). Vườn ở Nam bộ xuất hiện sớm và phát triển nhanh, qui mô rộng lớn và thường trồng cây chuyên canh: bưởi Biên Hòa ( miền Đông Nam bộ ), xoài Cao Lãnh ( miền Tây Nam bộ )... Công việc làm vườn có những công đoạn , những kỹ thuật canh tác mà kinh nghiệm của người làm ruộng không đủ đáp ứng yêu cầu sản xuất . Hơn nữa, việc trồng cây ăn trái trên vùng đất trũng là một thách thức buộc phải vượt qua để tồn tại. Chẳng hạn, đó kỹ thuật khai mương lên liếp vừa để chống úng vừa để có nước tưới cây quanh năm. Khi vét mương, thì bùn ( do phù sa lắng đọng ) là phân bón cây rất tốt. Bên cạnh đó, kỹ thuật ươm cây, ghép và chiết cành ảnh hưởng quan trọng đến năng suất... Công việc ở vườn quanh năm nhưng không bị thời vụ thúc bách như việc trồng lúa mùa. Do vậy nhịp sống có vẻ như ngưng đọng trong mỗi con người. Việc tiêu thụ trái cây, nghề ươm bán con giống chuyên nghiệp, mua phân bón, gạo từ các vùng khác... là một trong những biểu hiện của nền kinh tế hàng hóa đã sớm hình thành. Nền kinh tế hàng hóa trong một chừng mực nào đó đã sớm giải phóng con người thoát khỏi nền kinh tế tự cấp tự túc, mặt khác, có tác dụng đẩy mạnh quá trình giao lưu văn hóa. Thực tế đã chứng minh, miệt vườn thường gợi lên ý niệm về một đời sống yên bình, nhàn hạ và sung túc.Vườn là thứ tài sản bảo đảm cho cuộc sống hạnh phúc trong tương lai của đôi vợ chồng trẻ. Do vậy vườn là thứ sính lễ của chàng trai thực lòng yêu thương cô gái:
Chuồn chuồn bay thấp nước ngập ruộng vườn.
Nghe lời nói lại càng thương,
Thương em anh muốn lập vườn cưới em.
Nam bộ là vùng " văn minh kênh rạch ". Trên các vùng lãnh thổ Việt Nam , Nam bộ mà đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long nhiều sông rạch hơn cả. Văn hóa Nam bộ chịu sự tác động của môi trường sông nước nầy. Môi trường sông nước là nhân tố khá quan trọng tác động đến phong tục, tập quán, nhận thức, sinh hoạt gia đình, sinh hoạt lao động... nói chung là tác động đến nhiều khía cạnh văn hóa khác nhau của cư dân. Chẳng hạn, đám cưới ở đồng bằng sông Cửu Long thường đưa dâu bằng ghe:
Đưa dâu thì đưa bằng ghe,
Chớ đưa bằng bè ướt áo dâu đi.
Do có nhiều dòng chảy nên giao thông đường thủy cực kỳ quan trọng đối với cư dân thời kỳ đầu khai hoang trải qua mấy thế kỷ cho tới ngày nay. Tiếp theo là sinh hoạt đời sống trên sông nước gắn với ghe, xuồng : ghe làm nhà ở, ghe đưa đò, xuồng câu...
Có thể đặt ra câu hỏi, tại sao ở Nam bộ lại tồn tại một nền văn hóa sông nước
với những biểu hiện phong phú đa dạng hơn Bắc bộ trong khi Bắc bộ cũng có hệ thống sông ngòi không phải là ít. Nhiều người thường nêu nguyên nhân của nền văn hóa sông nước bằng thực tế địa lý. Đó là Nam bộ có hệ thống sông ngòi, kênh rạch dày đặc. Điều nầy đúng nhưng chưa đủ. Về mặt thủy học, sông ngòi Nam bộ theo chế độ bán nhật triều, nghĩa là trong một ngày (24 giờ) có hai lượt con nước lớn ròng. Ví dụ, từ 6 giờ sáng, nước sông, kinh, rạch bắt đầu lớn (nước dâng lên) đến 12 giờ thì nước lớn đến đỉnh điểm (nước đầy). Khi đã đầy rồi nước bắt đầu ròng (nước xuống), nước xuống tới đỉnh điểm gọi là ròng sát (khoảng 6 giờ chiều). Như vậy, từ 6.30 giờ chiều nước bắt đầu lên trở lại và chu kỳ sau thường trễ hơn chu kỳ trước 30 phút. Khi nước lớn thì dòng nước chảy theo chiều ngược lại của nước ròng. Qui luật nầy hết sức quan trọng, ảnh hưởng đến sinh hoạt vùng sông nước và ảnh hưởng tới kinh tế người dân. Người dân sẽ đi lại, vận chuyển hàng hóa theo con nước, chẳng hạn, khi đi nước lớn khi về nước ròng thì cả hai lượt đều đi nước xuôi cho nên việc chèo xuồng ghe không quá nặng nhọc như cư dân Bắc bộ. Chẳng hạn, nước sông Hồng, sông Đà chảy xiết khi đi xuôi nước cũng không phải dễ dàng (như Nguyễn Tuân nói trong Người lái đò sông Đà) khi đi ngược nước thì quá vất vả, nặng nhọc. Ỏ Nam bộ, nơi trao đổi hàng hóa, nơi họp chợ thường là những nơi giáp nước. Hai con kinh cùng đổ nước vào con kinh thứ ba ở hai đầu mỗi độ nước lớn, khi hai dòng chảy nầy gặp nhau thì nước không chảy được nữa. Chỗ gặp nhau đó gọi là chỗ giáp nước. Cư dân khi đi ngang qua con kinh nầy thường dừng lại chỗ giáp nước để chờ nước xuôi (nước đổi chiều ở cả hai nguồn) rồi mới đi tiếp lộ trình, hoặc đi trở về. Mấy đặc điểm nêu trên cho thấy, khi nắm được qui luật vận hành của dòng nuớc thì việc dùng các phương tiện giao thông thủy là hết sức tiện lợi. Thêm vào đó, thời kỳ đầu khai hoang các dòng chảy tự nhiên có sẵn trong khi đường bộ thì không thể làm ngay được. Nền văn hóa sông nước, do vậy, hình thành và phát triển vững chắc ở Nam bộ.
Những đặc điểm văn hóa nêu trên có ảnh hưởng đến văn hóa dân gian nói chung , văn học dân gian Nam bộ nói riêng . Truyện địa danh , truyện về sấu , truyện về cọp , truyện Ba Phi phản ánh khá rõ nét đất nước và con người Nam bộ , mặt khác là biểu hiện sinh động của sự tác động của môi trường địa lý , xã hội , văn hóa vào văn học dân gian . Ca dao - dân ca với những điệu hò trên sông nước , những điệu lý chứa đầy những hình ảnh sông nước , miệt vườn , phản ánh cảnh hoang vu của vùng đất mới cùng với hình ảnh người đi khai hoang . Cũng có thể tìm thấy tính cách Nam bộ trong bộ phận văn học dân gian nầy . Nam bộ thật sự là một vùng văn học dân gian , một nét riêng trong sự thống nhất mà đa dạng của văn học dân gian cả nước .
Về đại thể văn hóa Nam bộ có hai đặc điểm đáng chú ý , đó là những yếu tố văn hóa mới so với văn hóa truyền thống và sự hỗn dung văn hóa.
Về đặc điểm thứ nhất , trong quá trình ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội những yếu tố văn hóa mới hình thành như là sự tiếp nối cái cũ trong điều kiện mới. Xin nêu vài ví dụ về những yếu tố văn hóa mới : Người Nam bộ trồng lúa theo kiểu quãng canh , nghĩa là gieo hạt trên một diện rộng , lấy số lượng bù vào năng suất . Tập quán dùng ghe làm nhà ở khá phổ biến tại vùng sông nước đồng bằng sông Cửu Long.Ngôi nhà lá cũng là sản phẩm của quá trình tận dụng môi trường tự nhiên . Nhà được lợp mái bằng lá dừa nước , một loại dừa trái nhỏ , lá dài mọc hoang ven sông , rạch rất nhiều . (Ngày nay , dừa nước được trồng trong khu vực kênh , mương đất nhà một mặt để chống xoáy mòn , một mặt để làm kinh tế phụ : lấy lá dừa chằm thành một loại lá lợp hàng hóa) . Hệ thống cầu khỉ giản đơn ( làm bằng các loại cây thân mộc có trong vườn ) bắc qua kênh , mương tạo thành một thứ công trình giao thông nông thôn đặc thù của Nam bộ. Đạo Hòa Hảo , tên gọi chính thức là Phật giáo Hòa Hảo , một mặt là hiện tượng hỗn dung văn hóa ( kế thừa đạo Bửu Sơn Kỳ Hương , kết hợp tư tưởng Phật giáo với tín ngưỡng thờ ông bà ) một mặt là yếu tố văn hóa mới trên nền của những yếu tố văn hóa truyền thống ( là đạo Phật được bình dân hóa ). Đạo Hòa Hảo ra đời ở làng Hòa hảo ( thuộc tỉnh An Giang ) vào những năm 30 của thế kỷ XX , đề cao Tứ ân , khuyến khích tín đồ tu tại gia theo pháp môn tịnh độ , vốn là một tông phái Phật giáo phổ biến trong giới bình dân .
Đặc điểm thứ hai là quá trình giao lưu văn hóa đa phương diễn ra nhanh chóng liên tục tạo nên sự hỗn dung văn hóa . Trước hết , đó là sự hỗn dung văn hóa giữa những người Việt , vốn là cư dân của nhiều vùng , miền khác nhau tụ họp về Nam bộ trong quá trình khai phá . Thứ hai là sự giao lưu văn hóa giữa các tộc người cùng chung sống . Thứ ba là sự giao lưu văn hóa giữa Nam bộ với phương Tây diễn ra khá sớm và với các dân tộc Đông Nam Á từ thế kỷ XVII (cơ tầng văn hóa Đông Nam Á cổ của nền văn hóa Việt Nam có thể xem là vấn đề phổ quát hơn ). Ngôn ngữ của người Việt Nam bộ có sự vay mượn của tiếng Pháp , tiếng Hoa và tiếng Khmer .Chẳng hạn , từ quen thuộc trong tiếng Việt, "xuồng ",lại là từ gốc Hoa.Người Nam bộ sử dụng đồng thời ba từ thuộc tiếng Việt , Hoa , Khmer để chỉ hiện tượng say rượu : say , xỉn , xà quần .Địa danh Nam bộ bên cạnh những từ mang màu sắc bác học của văn hóa truyền thống với yếu tố long như Vĩnh Long , Tân Long , Long Châu , Long tuyền...còn có những địa danh có nguồn gốc Khmer , những địa danh là sự kết hợp giữa tiếng Việt và tiếng Khmer như cầu Mây Tức (tức, trong tiếng Khmer nghĩa là nước ).Đây là một biểu hiện dễ thấy bên cạnh nhiều biểu hiện khác nhau của sự giao lưu văn hóa như ẩm thực (người Việt ăn món canh chua của người Khmer, món cà ri gà của người Ấn , món lẩu của người Hoa...) mặc và trang sức ( người Việt mặc áo bà ba có nguồn gốc từ Mã Lai ...) , lễ hội ( cả người Việt và người Khmer đều tham gia lễ hội đua ghe ngo) tín ngưỡng (người Việt cũng sùng bái Ông Tà - Niet Tà - thần đất của người Khmer)...
Đạo Cao Đài là một trường hợp khá tiêu biểu cho hiện tượng hỗn dung văn hóa ở Nam bộ. Đạo Cao Đài ( tên chính thức là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ) hình thành từ những năm 20 của thế kỷ XX , có Tòa Thánh lớn nhất ở Tây Ninh với giáo lý tổng hợp của Nho , Phật ,Lão cùng với một số luồng tư tưởng phương Tây . Trong Thánh thất của đạo Cao Đài , cùng với Thiên nhãn còn có Phật , Khổng Tử...Sự giao lưu đa phương dẫn đến hiện tượng hỗn dung văn hóa như vậy là một trong những yếu tố làm nên tính phóng khoáng của người Việt Nam bộ trong quan hệ xã hội, trong nếp sống và suy nghĩ. Bởi vì, để cùng chung sống với nhau, người ta đã chấp nhận những nét dị biệt , không kỳ thị nhau .
Văn hóa Nam bộ là vấn đề rất rộng. Nó chính là văn hóa Việt Nam trên một vùng đất. Trong bài viết nầy chúng tôi cố gắng trình bày một vài biểu hiện của nền văn hóa miệt vườn và văn hóa sông nước, trong đó đặc điểm đáng chú ý là tính chất hỗn dung văn hóa. Chính những yếu tố nền tảng nầy đã chi phối một cách sâu sắc đến quá trình hình thành cũng như những đặc điểm nội dung và thi pháp của văn học dân gian Nam bộ nói chung, ca dao nói riêng.


Tài liệu tham khảo.
Chu Xuân Diên (2002), Cơ sỏ văn hóa Việt Nam,
Nxb Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.


VĂN HÓA SÔNG NƯỚC CẦN THƠ


CHÙA HOA Ở CẦN THƠ


CẢM NHẬN CA DAO NAM BỘ


Thứ Hai, 19 tháng 1, 2009

CHÙA HOA Ở CẦN THƠ

Chùa Ông (bến Ninh Kiều - TP. Cần Thơ)


QUÁ TRÌNH ĐỊNH CƯ
CỦA NGƯỜI HOA Ở
CẦN THƠ

Trần Phỏng Diều

Cần Thơ cũng như các tỉnh thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đất mới, quá trình hình thành vùng đất này chỉ trên dưới ba trăm năm, kể từ những bước chân đầu tiên của lưu dân vào khai khẩn vùng đất hoang Nam Bộ. So với các tỉnh khác trong khu vực, lịch sử hình thành vùng đất Cần Thơ có phần muộn màng hơn. Nhưng trong tương quan giữa các địa phương trong khu vực, Cần Thơ vẫn có những vị thế vững vàng về các mặt: văn hóa, chính trị, kinh tế, quân sự... Và đặc biệt, từ lâu, Cần Thơ đã được xác định là trung tâm của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, với tên gọi Tây Đô - với ý nghĩa, thủ đô của khu vực miền Tây Nam Bộ. Qua nhiều lần chia tách, có thể xác định, Cần Thơ được định hình với một tư thế đĩnh đạc đường hoàng trên dư đồ là vào năm 1739, với tên gọi lúc bấy giờ là Trấn Giang.
I. VÀI NÉT VỀ CÔNG CUỘC KHẨN HOANG Ở NAM BỘ VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÙNG ĐẤT TRẤN GIANG
Ai về thăm Bắc ta về với
Thăm lại non sông giống Lạc Hồng
Từ độ mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long
Ai nhớ người chăng? Ơi Nguyễn Hoàng
Mà ta con cháu mấy đời hoang
Vẫn nghe trong máu buồn xa xứ
Non nước Rồng Tiên nặng nhớ thương.
(Nhớ Bắc - Huỳnh Văn Nghệ)
Những khám phá khảo cổ học trên vùng đất Nam Bộ cho biết rằng, cách đây khoảng 4000 năm, vùng đất Nam Bộ này đã có con người cư trú và hoạt động trên một địa bàn rộng lớn. Tuy nhiên, lớp cư dân này chủ yếu cư trú ở vùng cao - vùng Đông Nam Bộ, còn vùng Đồng bằng sông Cửu Long cho mãi đến thế kỷ đầu công nguyên mới có những lớp người bắt đầu đến cư trú ở vùng tứ giác Long Xuyên, mà trước hết là vùng Óc Eo - Ba Thê. Lớp cư dân này trong quá trình chinh phục và khai phá vùng đất ở đây bắt đầu ổn định cuộc sống và dần dần hình thành những vùng đô thị ở cảng Óc Eo - Ba Thê. “Óc Eo là một hải cảng của đế đô vương quốc Phù Nam (tên là yadhapura - đô thị của các nhà săn bắn) nằm gần đồi núi Bathnom và gần xã Banam ở trong tỉnh Prêy Veng của Campuchia ngày nay. Vương quốc Phù Nam là một nước nằm trên đường nối Ấn Độ với Trung Quốc (...) Nước này tồn tại từ thế kỷ II đến khoảng đầu thế kỷ VII (thời phồn thịnh từ thế kỷ III đến thế kỷ V ) đã chiếm cả một vùng đất rộng lớn từ Đồng bằng sông Cửu Long đến Nam Trung Bộ, sang cả vùng trung lưu sông MêKông, qua thung lũng sông Mênam và xuống tận bán đảo Mã Lai”
[1]
Như vậy, vương quốc Phù Nam tồn tại được trong vòng 6 thế kỷ thì bắt đầu suy tàn, thay vào đó là vương quốc Chân Lạp. Cho mãi đến thế kỷ XVI, vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã hoàn toàn trở thành vùng đất thủy Chân Lạp. Trong giai đoạn này, người Khơme vẫn là lớp người cư trú đầu tiên và chủ yếu, nhưng với số lượng rất ít ỏi, phần lớn sống rải rác ở các dải đất giồng, không thích hợp với việc sinh sống bằng nghề trồng lúa nước. Cho nên, về cơ bản, trong giai đoạn này, Đồng bằng sông Cửu Long vẫn còn là vùng đất hoang vu. Điều này đã được Châu Đạt Quan - một sứ thần của triều đình nhà Nguyên (Trung Quốc) ghi lại trong Chân Lạp phong thổ ký, khi ông được cử sang kinh đô Ăngco để ban giao với vua nước Chân Lạp lúc bấy giờ là Xadravácman: “Bắt đầu vào Chân Bồ (vùng biển Vũng Tàu ngày nay), gần hết cả vùng đều là bụi rậm của rừng thấp, những cửa rộng của con sông lớn trải dài hàng trăn dặm, bóng mát um tùm của những gốc cổ thụ và cây mây dài tạo thành nhiều chỗ trú sum suê... Khắp nơi vang tiếng chim hót và tiếng thú kêu. Vào nửa đường trong sông, thấy những cánh đồng hoang không một gốc cây. Xa nữa, tầm mắt chỉ thấy toàn cỏ cây đầy rẫy. Hàng trăm, hàng nghìn trâu rừng tụ họp từng bầy. Tiếp đó, nhiều con đường dốc đầy tre chạy dài hàng trăm dặm”
[2]. Tình trạng hoang vu đó còn kéo dài cho mãi đến sau này.
Từ thế kỷ XVII, vùng đất Nam Bộ nói chung, Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng bắt đầu đón nhận thêm những lớp cư dân mới, với những nền văn hóa mới đến đây cùng khẩn hoang và lập nghiệp. Lớp cư dân này phần lớn là những người buộc phải xa rời quê cha đất tổ để tìm con đường sống do tai họa chiến tranh giữa hai tập đoàn Trịnh - Nguyễn gây ra. Trong đó cũng có một số người là nông dân, thợ thủ công nghèo, những người tha phương kiếm sống, những tội đồ không chịu nỗi sự áp bức, bốc lột tàn bạo của giai cấp phong kiến. Khu vực định cư đầu tiên của những lưu dân này là vùng Mô Xoài (vùng Bà Rịa) và Đồng Nai (Biên Hòa và Sài Gòn).
Trong lớp cư dân mới đến vùng Đồng bằng sông Cửu Long vào cuối thế kỷ XVII, còn có một số người Hoa từ các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến (Trung Quốc), mà phần đông là quan, quân nhà Minh không chịu thần phục triều đình Mãn Thanh. “Mùa hè, tháng 5, quan Tổng binh trấn thủ Long môn Dương Ngạn Địch và phó tướng Hoàng Tiến; quan Tổng binh trấn thủ Cao, Lôi, Liêm là Trần Thượng Xuyên và phó tướng Trần An Bình đem binh thuyền và gia quyến trên 3000 người và 50 chiếc thuyền vào hai hải cảng Tư Hiền và Đà Nẵng. Họ tâu xin làm thần bộc nước ta. Họ được như ý và được chỉ định vào định cư trên đất Đồng Nai và Mỹ Tho”
[3]. Đến với Đồng bằng sông Cửu Long vào cuối thế kỷ XVII còn có thêm một lực lượng “phản Thanh phục Minh” khác, đó là lực lượng do Mạc Cửu cầm đầu. Mạc Cửu là người Châu Lôi, tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc). Khác với nhóm Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch, Mạc Cửu đến Lục Chân Lạp trước, đến vùng Đồng bằng sông Cửu Long sau. “Bấy giờ có viên di tướng nhà Minh ở Lôi Châu tên là Mạc Cửu, không chịu thần phục triều đình nhà Thanh, bỏ nước đem gia quyến sang tá túc ở Nam Vang, kinh đô Chân Lạp. Biết được tình hình ở Mang Khảm, Mạc Cửu bèn trưng mua thế, đem gia quyến tới ở Phương Thành và khai thác vùng này (...) Khi sắp xếp hành chính trong khu vực đã tương đối ổn định, dân chúng quy tụ về đã khá đông, tháng 8 năm Mậu Tý (1708) Mạc Cửu bèn sai thuộc hạ là Trương Cầu, Lý Xá dâng biểu văn trần tình lên Triều đình Phú Xuân, xin hiến đất Hà Tiên cho Đại Việt và xin được làm quan trưởng xứ ấy. Chúa Hiển tông Hiếu Minh hoàng đế Nguyễn Phúc Chu chấp thuận và sắc cho Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên, tước Cửu Ngọc hầu”[4]. Ngoài ra, khoảng thế kỷ XVIII, vùng đất này lại đón thêm một số lớn người Chăm đến đây sinh sống.
Cuộc sống cộng cư của các dân tộc, mà thành phần người Việt là chủ yếu giữa vùng đất hoang vu, đầy khắc nghiệt đã tạo nên sự đoàn kết, hòa thuận giữa các dân tộc anh em. Tất cả cùng chung sức khai phá vùng đất hoang Đồng bằng sông Cửu Long với quy mô ngày càng lớn. Biến vùng đất hoang vu, rừng rậm này trở thành những xóm làng đông đúc, ruộng đồng phì nhiêu, xây lộ, đắp cầu, dần dần hình thanh chợ búa, thị tứ và từ đó trung tâm dân cư cũng được thiết lập. Cuộc sống của cư dân lúc bấy giờ chủ yếu là các nghề làm ruộng muối, chài lưới, đánh bắt thủy hải sản, lên rừng đốn củi, lấy mật ong, săn thú...
Khoảng thế kỷ XVIII, lưu dân người Việt cũng bắt đầu đến định cư và tiến hành khai khẩn ở hai bờ vàm cỏ Tây, bờ bắc sông Tiền bao gồm: Cai Lậy, Gò Công rồi tiến dần đến vùng Đồng Tháp Mười, Khu tứ giác Long Xuyên. Vùng bờ nam sông Tiền thì bao gồm các khu Cái Mơn, Cái Nhum, Sa Đéc cho đến Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng... Có thể tóm lược công cuộc khẩn hoang và Nam tiến của dân tộc qua các thời điểm sau: Mô Xoài, Đồng Nai (1658); Gia Định (1698); Hà Tiên (1714); Mỹ Tho, Long Hồ (1731); Long Xuyên, Kiên Giang, Trấn Giang, Trấn Di (1739); Tầm Bôn, Lôi Lạp (1756); Trà Vang, Ba Thắc (1757).
Như vậy, Trấn Giang (Cần Thơ) vào khoảng thế kỷ XVIII về cơ bản vẫn còn là vùng đất đầm lầy, nê địa, rừng rậm hoang vu, thú dữ tràn đầy.


[1] Thạch Phương - Hồ Lê - Huỳnh Lứa - Nguyễn Quang Vinh: Văn hóa dân gian người Việt ở Nam Bộ. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nộ i- 1992. Tr. 26.
[2] Dẫn theo: Thạch Phương - Hồ Lê - Huỳnh Lứa - Nguyễn Quang Vinh, sđd. Tr. 28.
[3] Nguyễn Văn Hầu: Sự thôn thuộc và khai thác đất Tầm Phong Long. Tập san Sử Địa: Nam tiến của dân tộc Việt Nam. Khai Trí - 1970. Tr.6
[4] Nguyễn Đình Tư: Lịch sử thành lập tỉnh Kiên Giang. Tạp chí Xưa và Nay, số 226, tháng 12 - 2004.

RÒ BÂM



TỪ BÀI THƠ KHUYẾT DANH
ĐẾN LOẠI HÌNH
“MẶT NẠ VŨ KỊCH KHƠ ME ĐBSCL”

* NGUYỄN TRUNG NGUYÊN


“Em đâu rồi hỡi nang Xê – Đa
Không khéo lạc giữa dòng người xuôi về lễ hội
Chằn “Krông Riếp” lại làm em buồn tủi
Và anh cũng mất vui trong ngày đón hội mùa…”
Bốn câu thơ trên là khổ đầu trong một bài thơ 20 câu có tên “Tìm em đêm lễ hội”, tôi đọc trên một tờ báo phát hành cách đây phải đến vài chục năm mà tôi tình cờ vớ được khi dọn dẹp đống báo cũ. Mối mọt chẳng chút nể nang cũng như chẳng cần biết văn học là gì nên đã xơi mất tên tác giả, tuy nhiên ấn tượng mà bài thơ để lại trong tôi ngoài nội dung của nó còn là những cái tên, những cụm từ là lạ mà tôi không thể nào hiểu rõ ý nghĩa. Với chút kiến thức ít ỏi của mình tôi hiểu đại khái đây chắc là tâm sự của một chàng trai Khơ me đi tìm người yêu trong đêm lễ hội. Chàng trai đã mượn tên các nhân vật trong một câu chuyện gì đó, có thể tương tự như “Thạch Sanh, Lý Thông” của người Kinh mà gởi gắm nỗi niềm.
“Đêm Trà Vinh trời rộng ghê chưa
Sao Liệt Hộ chỉ tay về hướng bắc
Anh tìm em như chàng Prặc…
Bỏ ngai vàng quết cớm dẹp mòn tay…”
Cớm dẹp là món ăn truyền thống không thể thiếu của người Khơ me trong các dịp lễ hội. Nó được làm bằng nếp mới trộn với dừa nạo và đường, an rất ngon. Như vậy Prặc Riêm là một vị vua, vì tình yêu mà bỏ cả ngai vàng về làm một người nông dân. Tuy nhiên, nếu nội dung bài thơ chỉ có vậy thì cũng không có gì đáng nói. Đằng nầy, ở các khổ thơ sau có hai cụm từ rất lạ. Mà tôi, dù đã suy nghĩ nát óc vẫn không tài nào hiểu được ý nghĩa của nó:
“Chằn bây giờ cũng nhiều lắm nghe em
Những ông chằn không mang mặt nạ
Hạt lúa, củ khoai cho mình no dạ
Tình anh cho em mỗi ngày không đủ vui sao?

Anh nguyện đi đầu trong lễ dâng bông
Đánh đông – dẹp bắc để quỷ ma không còn đất sống
Rước em bằng kiệu tay về quê cày ruộng
Cho em có quyền “mục-ca-xách” tim anh…
Và ở khổ cuối cùng:
“Em đâu rồi hỡi nàng Xê – Đa
Ghe ngo đã sẵn sàng xuất phát
Thuyền rước dâu vắng em chẳng về bến được
Anh thui thủi một mình “Tro-chăn-ca”
Yêu thích bài thơ bao nhiêu thì hai cụm từ “mục-ca-xách” và “Tro-chăn-ca” càng làm tôi “tức tối" bấy nhiêu. Thế là tôi quyết định làm một cuộc hành trinh "giải mã” để thử xem nhà thơ không quen biết ấy muốn nói gì qua mấy câu thơ nh­ư đánh đố độc giả. Thoạt đầu, tôi nghĩ có thể đây là một kiểu "chơi chữ" như­ thi thoảng ng­ười ta vẫn thêm vào câu văn vài tiếng nước ngoài cho ra vẻ. Và như ­ thế thì chỉ cần tìm một ngư­ời nào đó giỏi ngôn ngữ Khơ me là xong. May mắn thay, tối có quen một anh bạn là ng­ười Khơ me đã tốt nghiệp khoa đạo diễn, tr­ường Nghệ thuật sân khấu II TP. Hồ Chí Minh. Hiện nay anh đang là giáo viên bộ môn sân khấu trường Văn hóa Nghệ thuật TP. Cần Thơ, ngoài ra anh còn là ng­ười phụ trách Câu lạc bộ Cải lư­ơng Đồng Ấu, nơi quy tụ một số em có năng khiếu và yêu thích bộ môn cải lương. Ở đây các em được hướng dẫn, tập tành cũng như dàn dựng các trích đoạn, b­ước đầu dã thu được một số kết quả khả quan qua các kỳ hội diễn. Rõ ràng anh bạn Thạch Sỹ Long là ng­ười hội đủ hai yếu tố "ắt có và đủ” để giúp tôi tìm hiểu về bài thơ.
Đọc xong bài thơ mà tôi đã cẩn thận chép lại bằng vi tính. Anh ta nói . Đây là là các nhân vật chính trong tích tuồng Riêm-kê dị bản Khơ me của trư­ờng ca Ramâyana, được thể hiện qua loại hình mặt nạ vũ kịch Rò Bâm của ngư­ời Khơ me. Sử thi Ramâyana là bản anh hùng ca đư­ợc xem là nền tảng đạo lý của Ấn Độ và là thánh thư của ng­ười theo Ấn giáo (Hindou). Còn Rò bâm th­ường được gọi tắt là hát “Rầm” hay còn gọi là “Rom yắc” có nghĩa là múa chằn. Còn nếu gọi một cách thật chính xác là “Rom Rò Bâm" tức là múa Rò Bâm. Chính cách gọi đầy đủ nầy đã chỉ rõ đặc điểm cơ bản của Rò Bâm là loại hình sân khấu sử dụng ngôn ngữ múa là chủ yếu. Nói cách khác Rò Bâm là vũ kịch. Diễn viên dùng múa để thể hiện tính cách, tâm lý của nhân và hát chiếm tỷ trọng nhỏ hơn múa rất nhiều...
Được anh giải thích khá tư­ờng tận nh­ư vậy, ít nhiều tôi cũng giải tỏa một phần nhữ­ng thắc mắc trong đầu. Thế nh­ưng, khi nói đến hai cụm từ “Mục-ca-xách” Và “Tro-chăn-ca” thì ngay cả anh cũng “tắc tị". Tuy nhiên, chính nhờ những thông tin ban đầu ấy, đã giúp tôi rất nhiều trong việc tìm hiểu về một loại hình nghệ thuật dân tộc truyền thống của ngư­ời Khơ me, những cư dân sống trên khu vực đồng bằng sông Cửu Long mà nay d­ường như­ đã hoàn toàn vắng bóng trên các sân khấu biểu diễn.
Khó có thể xác định một cách có căn cứ về nguồn gốc của loại hình vũ kịch mặt nạ nầy ở ĐBSCL. Song điều chắc chắn là nó đã có mặt từ­ lâu đời và là loại hình sân khấu cổ x­ưa nhất của người Khơ me. Hỉện nay, Rò Bâm không còn phổ biến rộng rãi nữa, mà ngay cả hơn hai mư­ơi năm về tr­ước loại hình nghệ thuật nầy cũng chỉ co cụm ở một số địa phương có đông ngư­ời Khơme sinh sống như­ : Giồng Líu, Tà Hom, Hiếu Tử thuộc tỉnh Trà Vinh hoặc Bố Thảo, B­ưng Chông... của tỉnh Sóc Trăng. Các địa ph­ương khác ở miền tây nam bộ, Rò Bâm không hề có hoặc đã lụi tàn… Càng tìm hiểu sâu về loại hình nghệ thuật nầy, tôi càng bị một nỗi buồn, một nỗi nhớ tiếc điều gì đó không thật cụ thể nhưng nó cứ đeo đẵng tôi suốt trong bài viết nầy. Có thể đó là một hoài niệm xa xôi của chàng trai trong đêm lễ hội ngày xư­a, không tìm đ­ược ngư­ời yêu để rồi sau đó xa nhau mãi mãi.
Từ khi loại hình Dù Kê cơ động ra đời, Rò Bâm đã mất đi vị trí vốn có của nó tr­ước kia. Ở vào thời hoàng kim của mình, Rò Bâm rất được sự hâm mộ của đông đảo ng­ười xem, nhất là những người lớn tuổi. Loại hình vũ kịch mặt nạ nầy đã tác dụng không nhỏ đến đời sống thẩm mỹ nghệ thuật của ngư­ời Khơme ĐBSCL trong một giai đoạn lịch sử nào đó . Với kịch bản rút từ truyện Riêm Kê , Rò Bâm đã là phư­ơng tiện truyền đạt có hiệu quả và sinh động trong cuộc chiến đấu đầy gian khổ và thắng lợi của chính nghĩa, khẳng định thiện thắng ác và đề cao lòng chung thủy vô bờ bến của nàng Xê Đa, nói cách khác nó dã chuyển tải một cách sống động truyện Riêm Kê , tác phẩm văn học nền tảng của văn hóa Khơ me.
Theo một số nghệ nhân lớn tuổi cũng như­ những ng­ười am hiểu về loại hình nghệ thuật nầy cho biết. Tr­ước đây. việc dàn dựng kịch bản Rò Băm mỗi nơi mỗi khác, hoàn toàn không ổn định. Tuy có cùng xuất xứ là truyện Riêm Kê, nh­ưng mỗi đoàn chỉ dựa vào những tình tiết cơ bản của cốt truyện, sau đó sắp xếp thành vở diễn riêng. Việc chọn lựa các trích đoạn cũng không giống nhau. Có đoàn diễn đoạn : “… Từ lúc Diphếc, em của chúa chằn Krông Riếp, bị anh đuổi khỏi Lân Ka về hàng phục Prặc Riêm. Cho đến lúc Riêm chiếm được Lân Ka, phong cho Diphếc thay Krông Riếp làm vua Lân Ka… ". Lại có đoàn diễn đoạn : "...Hãnuman ra Lân Ka đem tin tức cho nàng Xê Đa...” hoặc đoạn : “Prặc Riêm thử cung và được đạo sĩ gả Xê-Đa…”.
Xét ở góc độ nghệ thuật thuần túy phư­ơng thức biểu đạt chính của Rò Bâm là múa. Do đó, để trình diễn một tích tuồng có quy mô đồ sộ là Riêm Kê đòi hỏi một khối l­ượng động tác múa tư­ơng xứng, với một trình độ nghệ thuật cao khả dĩ truyền đạt đ­ược cho ngư­ời xem những hình tư­ợng sân khấu và chủ đề của tác phẩm. B­ước vào vở diễn, các diễn viên khi ra sân khấu phải múa chào rồi mới diễn và tr­ước khi kết thúc cũng múa lại động tác lúc đầu rồi mới vào. Đó là nguyên tắc chung cho các vai chính diện không đeo mặt nạ (Prặc Riêm-Prặc Lẹt-Xê Đa...), còn các vai có đeo mặt nạ lại khác, nói chung mỗi loại nhân vật đều có điệu múa riêng thể hiện vai của mình. Nếu ở vai thiện, các động tác múa thống nhất ở chỗ dịu dàng, mềm mại, hoặc có lúc đĩnh đạt, tinh tứ, thiết tha hay dồn dập quyết liệt khi đối đầu với kẻ thù . Nh­ưng ở tất cả mọi tình huống. đều giữ được phong thái của kẻ cao thượng, chính đại khác hẳn với tính bản năng, thô bạo của phe ác – của bọn chằn tinh. Thì ở phe phản diện, đều là dòng họ của chằn Krông Riếp. Đó là anh em của hắn (Wì Riếp – Cômaka – Asêl - Wiđacaxây...) hay là con cái (lnđachích). Tất cả đều mang mặt nạ có nhiều tầng đầu, mặt mũi dữ tợn. Mỗi nhân vật đều có mặt nạ riêng, y trang ngoại hình khác nhau, nhưng lại múa một số động tác giống nhau. Khi chằn xuất hiện trên sân khấu thì toàn bộ cục diện sân khấu trở nên ồn ào, sôi động. Phong cách đặc tr­ưng của vai chằn là b­ước đi nặng nề, chân dậm mạnh trên sàn, tấn thấp, chân khuỳnh ra hai bên, trong khi đó tay luôn chỉ trỏ, eo mềm, mông lắc theo nhịp nhạc nhanh, dồn dập bộc lộ tính chất hách dịch, võ biển. Đứng về khía cạnh riêng của nghệ thuật múa mà xét thì múa chằn là sáng tạo đáng chú ý, đạt trình độ kỷ thuật cao và giàu khả năng biểu hiện.
Ngoài hai tuyến nhân vật trên, Rò Băm còn một loạt những nhân vật khác như­: đạo sĩ, bà lão, chim thần, hề và đặc biệt quan trọng là khl. Mà tư­ớng khỉ Hãnuman còn có khi gọi là Hắc Hầu Vư­ơng, một thuộc hạ trung thành của Prặc Riêm, là nhân vật cầm đầu đoàn quân khl. Ngoài ra còn có thêm hai nhân vật vua khỉ - cậu của Hãnuman. (Ở một số nước Đông Nam Á, ta có thể bắt gặp hình ảnh Hãnuman ở mọi nơi, trong sách vở, đền chùa, tranh tượng. Theo học giả Trung Quốc Hồ Thích thì con khỉ Tôn Ngộ Không trong Tây Du Ký là hình bóng của con khi Hãnuman được Đư­ờng Tam Tạng du nhập vào sau chuyến thỉnh kinh. Hồi ấy đạo Bà La Môn rất thịnh ở Ấn Độ và cạnh tranh thế lực với Phật giáo. Người theo Phật giáo đại thừa ở Trung Hoa có lẻ đã mô phỏng hình ảnh Hãnuman dể tạo ra Tôn Ngộ Không của mình).
Tất cả các vai khỉ đều mang mặt nạ khỉ và có các động tác múa riêng. Nhìn chung, các động tác múa của vai khỉ có tính ư­ớc lệ và cách thể hiện đã gây nên hiệu quả tạo hình nhất định. Đôi lúc các diễn viên khl cũng nhại lại dáng đi đứng và sinh hoạt của loài vật nầy một cách tự nhiên chủ nghĩa như­ gãi s­ườn, gãi nách, bắt chí, nhào lộn và nhảy nhót.
Như­ vậy, múa trong Rò bâm là một tập hợp phong phú và quy cũ có khả năng diễn đạt một cách ­ước lệ tất cả các tình huống, cũng như­ tính cách và tâm lý nhân vật. Tuy lấy múa làm ngôn ngữ chính như­ng lời ca và âm nhạc cũng dự phần quan trọng. Múa tất nhiên là múa trên nền nhạc: hoặc vừa múa vừa hát (các vai không mang mặt nạ); tiếng hát trong hậu tr­ường hoặc múa trên nền nhạc hòa tấu. Lúc đối thoại thì không có nhạc, cũng không múa. Riêng vai hề thì không hát, cũng không múa theo bài bản quy định mà chỉ pha trò theo khẩu ngữ hoặc chỉ hát những làn điệu dân gian có tính hứng diễn. Với vai hề, sân khấu Rò Bâm vui t­ươi hơn và đời hơn. Hề làm thay đổi cái không khi cổ xư­a và thần thoại của vở diễn.
Trở lại với bài thơ khuyết danh “Tìm em đêm lễ hội", từ hai câu: “Đêm Trà Vinh trời rộng ghê ch­ưa. Sao Liệt Hộ chỉ tay về hướng bắc…" mà tôi đã làm một cuộc hành trình đi về nơi có thể tác giả đã sinh ra và lớn lên ở đây, với mong muốn được biết – được gặp một người làm thơ hết sức gắn bó với quê hương, ruộng đồng cũng như yêu tha thiết loại hình nghệ thuật mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Thế nh­ưng, tôi đã thất vọng, nhà văn Hồ Tĩnh Tâm, ng­ười rất gắn bó với tỉnh Cửu Long (cũ) nơi có ng­ười Khơ­me đông nhất nhì ở ĐBSCL, lắc đầu bảo không biết tác giả. Nhiều anh em văn nghệ sĩ khác cũng vậy, họ ch­ưa từng đọc cũng như­ biết ng­ười đã viết những câu thơ là lạ ấy.
Khi đã có những hiểu biết nhất định về loại hình nghệ thuật vũ kịch mặt nạ Khơme ĐBSCL Rò Bâm đọc lại bài thơ­ tôi mới thấy rằng tác giả đã gởi biết bao tình cảm của mình trong từng câu chữ. Với “cớm dẹp" món ăn mà Prặc Riêm đả bỏ ngai vàng để quết đến “mòn tay” ấy, là lễ vật không thể thiếu trong các lễ hội của ngư­ời Khơme. Như­ ở lễ Okombok – là lễ cúng trăng của đồng bào Khơme Nam bộ th­ường đ­ược tổ chức vào ngày 15 tháng l0 âm lịch hàng năm với mục đích tạ ơn thần trăng đã cho mùa màng t­ươi tốt, sông ngòi nhiều tôm cá, ngư­ời ng­ười được mạnh khỏe.
Tối hôm làm lễ, khi mặt trăng vừa ló dạng, ng­ười ta bày giữa sân một mâm cổ cúng gồm có đĩa cớm dẹp, chuối chín và dứa tươi gọt vỏ, khoai mì… Nhang và đèn được thắp lên trên chiếc cống nhỏ làm bằng hai thân tre hay nứa cột chụm lại. Trong khi cúng họ căn cứ vào giọt sáp rơi xuống trên miếng lá chuối đ­ược đặt bên d­ưới để đoán mư­a nắng và thời tiết cho năm tới. Cúng xong mọi ng­ươi ăn uống vui vẻ, trong lúc những chiếc đèn giấy được thả bay lên trời trong tiếng nhạc ngũ âm và những chiếc bè chuối có gắn đèn và các lễ vật lờ lững trôi trên các con kênh, các dòng sông. Tục thả đèn nổi, đèn bay là nghi lễ nhằm xua đuổi bóng tối, sự ẩm ­ướt mùa mư­a.
Với chòm sao Liệt Hộ - có tên khoa học là sao Orion đã đ­ược bà con nông dân ta gọi một cách thân thuộc là sao Thần Nông. Là một chòm sao có hình dáng một ng­ươi đang vác trên vai chiếc cày, mà những cư dân có nền văn minh lúa n­ước như­ Việt Nam, Campuchia x­ưa kia vẫn dựa vào đấy để dự đoán thời tiết cho vụ mùa trong năm.
Còn ở hai câu thơ: "…Anh nguyện đi đầu trong lễ dâng bông. Đánh đông dẹp bắc để quỷ ma không còn đất sống... " thì nhà thơ lại đề cập đến một vấn đề khác. Thực tế, đứng ở khía cạnh dân tộc học mà xét các đoàn Rò Bâm khi biểu diễn các trích đoạn của truyện Riêm Kê, ít nhiều mang màu sắc tín ng­ưỡng. Ngày x­ưa một số đoàn Rò Bâm th­ường biểu diễn với đầy đủ y trang mặt nạ, nhạc cụ phục vụ cho lễ Dâng bông và lễ cúng ông Tà. Ở trong buổi diễn nẩy, đoàn Rò Bâm đi theo đoàn ng­ười dâng bông từ nhà đến chùa và đi ba vòng quanh chính điện. Vừa đi các diễn viên vừa múa hát. Việc biểu diễn nầy không chỉ để giúp vui cho buổi lễ mà chủ yếu nhầm "đánh quỷ để dẹp đường” cho đám ng­ười hành lễ. Trò diễn nầy trong chừ­ng mực nào đó có ý nghĩa t­ương tự như­ trò Tề Thiên đánh động của ng­ười Việt ở ĐBSCL. Mặt khác, như­ một tập quán, việc biểu diễn Rò Bâm chỉ tổ chức tr­ước mùa m­ưa, trong lễ cúng ông Tà là hình thức biểu diễn có chức năng của một nghi lễ nông nghiệp rõ rệt. Theo đó, việc chiến thắng chằn Krông Riếp hàm ý là sự thắng lợi của điều tốt, tiêu diệt điều xấu; và ở thời diềm ấy thì điều xấu chính là nắng hạn, dịch bịnh và điều tốt là mưa thuận gió hòa, sự sung túc và bình yên cho dân sóc.
Tìm hiểu về loại hình nghệ thuật vũ kịch mặt nạ Rò Bâm xem nh­ư tôi đã ít, nhiều biết rõ về nó. Nh­ưng tìm ra ngư­ời viết bài thơ ấy thì tôi đành đầu hàng. Ông là ai? Một ngư­ời làm thơ chuyên nghiệp hay chỉ là cảm hứng nhất thời khi nỗi buồn trĩu nặng vi không gặp được ng­ười yêu. Ông còn hay đã mất? Mà sao những vần thơ của ông cứ làm tôi đau đáu khôn nguôi: “Rước em bằng kiệu tay về quê cày ruộng. Cho em cái quyền “Mục – ca – xách” tim anh…”. Mục-ca-xách ở đây chính là một động tác múa của chằn Krông Riếp - có nghĩa là “đi ngang ngông nghênh”. Có phải trái tim ông đã bị ng­ười yêu giày xéo. Để rồi “Thuyền rước dâu vắng em chẳng về bến được. Anh thui thủi một mình “Tro – chăn – ca”. Tro-chăn-ca cũng là một động tác múa của các vai đại diện cho phe thiện. Đó là “Tay chống càm, tay bợ chỏ” thể hiện trạng thái tình cảm đang buồn - rất buồn.
Trong quá trình tìm hiểu giải mã bài thơ, tôi đã gặp khá nhiều người, tra cứu không ít nguồn thông tin, tư liệu (*). Để rồi chợt nhận ra một điều: loại hình vũ kịch mặt nạ Khơme ĐDSCL gần như­ đã hoàn toàn mai một. Có còn chăng là một, hai trích đoạn ở các đoàn nghệ thuật Khơme lớn nhưng việc đem ra biểu diễn thì cũng "năm thì m­ười họa". Còn các đoàn Rò Bâm tự phát trong bà con nông dân thì đã hàng mấy chục năm nay hoàn toàn vắng bóng. Có lần, tôi đọc được trên báo Cần Thơ chủ nhật, bài viết “Đôi nét về Dân nhạc-dân ca- Dân vũ của ngư­ời Khơme ở Cà Mau” của hai tác giả Nguyễn Tri và Phạm Anh Hoan. Đã đề cập đến khá nhiều loại hình nghệ thuật của ng­ười Khơme nh­ưng không thấy nói tới Rò Bâm.
Ở khá nhiều ngôi chùa Khơme miệt Sóc Trăng, Trà Vinh vẫn còn các pho t­ượng chằn Krông Riếp nhiều tầng đầu dữ tợn, đứng đó như chứng nhân cho một loại hình nghệ thuật đã lùi vào dĩ vãng . Thời gian trôi qua, đem đến cho chúng ta nhiều niềm vui, hạnh phúc mới. Thì cũng lấy di một điều gì đó, những nghệ nhân sắm vai : Prặc Riêm, nàng Xê Đa, Chúa khỉ Hãnuman... “Những người muôn năm cũ. Hồn bây giờ nơi đâu?”. Tôl xin mượn hai câu thơ trong bài : "Ông đồ già" của nhà thơ Vũ Đình Liên để chấm dứt bài viết nầy.



(* Theo nhà nghiên cứu Huỳnh ngọc Trảng)