Thứ Bảy, 28 tháng 2, 2009

LỄ HỘI

(bà con khmer ở Tri Tôn dùng xe ngựa đi dự lễ hội)
(các đội văn nghệ Kinh, Hoa, Chăm, Khmer phục vụ lễ hội)

(ảnh baoanhdatmui.vn)


BÀN THÊM VỀ NÉT ĐẸP TINH THẦN



CỦA LỄ VÍA BÀ CHÚA XỨ.

TS. Trần Văn Nam

Lễ hội vía bà Chúa Xứ ở Núi Sam, Châu Đốc , An Giang, diễn ra từ ngày 23 đến 27 tháng 4 âm lịch (25 là ngày chánh lễ), là một trong những lễ hội lớn nhất của Nam bộ.
Tầm vóc hoành tráng của lễ hội thể hiện ở nhiều mặt. Về thời gian, khách hành hương bắt đầu kéo về Núi Sam để chiêm ngưỡng Bà từ đầu tháng 4 (thậm chí là từ sau Tết Nguyên đán), cho nên có thể nói lễ hội kéo dài hàng tháng. Về không gian, nhân dân vùng Châu Đốc tham gia chuẩn bị mọi mặt cho việc tổ chức lễ và phục vụ người hành hương cũng như khách du lịch. Mặt khác, không chỉ người đồng bằng sông Cửu Long mà đồng bào các tỉnh miền Đông Nam bộ và cả Trung bộ cũng tham gia. Quan trọng hơn cả là trong tâm thức người miền Tây Nam bộ, Bà là "Mẹ xứ sở", là vị thần góp phần đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho con người nơi đây. Biểu hiện dễ thấy của nét văn hóa tâm linh nầy ở chỗ, trong mùa lễ hội người dân đã đến đây cầu xin Bà những điều tốt lành với niềm tin "có tin là có thiêng". Thay vì vào chùa cầu tự, những cặp vợ chồng hiếm muộn cũng đến cầu Bà. Dù sao có niềm tin để sống vẫn mang một ý nghĩa nào đó khi mà vấn đề tưởng chừng như vượt quá tầm tay con người.
Thật ra, tín ngưỡng thờ mẫu là một tín ngưỡng truyền thống của người Việt từ ngàn xưa. Đó là tín ngưỡng Tam phủ, thờ Bà Trời - mẫu Thượng Thiên, Bà Đất -mẫu Thượng ngàn, Bà Nước- mẫu Thoải (Thuỷ). Cũng có thể nói là tín ngưỡng Tứ phủ, nếu tính thêm Chúa Liễu Hạnh (mẫu Liễu). Tín ngưỡng thờ mẫu của người Việt mạnh mẽ đến nỗi, đã góp phần âm tính hóa Phật giáo. Khác với Phật giáo Ấn Độ, Phật giáo Việt Nam có Phật Bà và dĩ nhiên có chùa Bà. Riêng ở Nam bộ, người dân sùng bái Bà Đen (Tây Ninh), Bà Nam Hải (Bạc Liêu và các vùng ven biển Nam bộ), Bà Om (của người Khmer Trà Vinh)...Như vậy, tín ngưỡng Bà Chúa Xứ là sự nối tiếp của tín ngưỡng truyền thống.
Sức mạnh của chất âm tính trong tín ngưỡng dân gian còn thể hiện trong cách tiếp nhận tượng thần. Các nhà khảo cổ cho biết, tượng Bà hiện nay đang thờ trong miễu là tượng được tạc bằng đá xanh (không phải đá ở núi Sam) từ nơi khác chuyển đến.(Tạm thời không bàn về gỉa thiết nói rằng tượng có nguồn gốc Ấn Độ, với những linga-yoni bên phải tượng, đường nét nghệ thuật trung cổ Ấn Độ). Chúng tôi muốn nhấn mạnh, đây là tượng nam thần. Tượng nam thần nhưng lại được người dân gọi và tin là Bà. Niềm tin nầy gắn với một truyền thuyết kể rằng, một vị nữ thần tự xưng là Bà Chúa Xứ báo mộng với người dân làng Vĩnh Tế, bảo chọn 9 cô gái đồng trinh lên đỉnh núi Sam đưa tượng Bà về thờ, Bà sẽ phù hộ cho dân sống an bình. Sức mạnh của tín ngưỡng thờ mẫu đã khiến người ta nghĩ đến Bà Chúa xứ chứ không phải là "Ông Chúa Xứ". Có phải chăng, truyền thống văn hóa nông nghiệp, với đặc trưng trọng tình cảm, trọng phụ nữ, cư dân cảm thấy Bà- Mẹ bao giờ cũng gần gũi hơn.
Chúng tôi muốn nói thêm về lễ Rước sắc thần trong quy trình lễ thức. Trước khi lễ túc yết ( đây là chánh lễ) diễn ra, thì sắc thần được rước từ lăng Thoại Ngọc Hầu về miễu Bà. (Thực ra, sắc của vua phong cho Thoại Ngọc Hầu không còn, đây chỉ là rước bài vị của ngài, của hai phu nhân và các quan cùng theo ngài trấn thủ Vĩnh Thanh). Khi đến ngày cuối (16 giờ, ngày 27), sắc thần được đưa trả về lăng, gọi là lễ Hồi sắc. Lễ túc yết trong nghi lễ tế thần bao giờ cũng mang ý nghĩa tạ ơn và cầu xin thần linh. Vậy thì, người dân tạ ơn và cầu xin cả Bà Chúa Xứ lẫn Thoại Ngọc Hầu. Ở đây có sự hội ngộ giữa nhân thần và thần tự nhiên. Việc dân chúng ghi ơn Thoại Ngọc Hầu thì không cần bàn thêm. Nhưng tại sao có sự hội ngộ nầy, chúng tôi chưa dám lạm bàn, sợ rằng không phải với người xưa chăng ? Có điều, truyền thuyết kể rằng, mỗi khi Tướng công Thoại Ngọc Hầu ra trận, các phu nhân đến miễu Bà khấn vái, cầu Bà phù hộ... Về sau, vợ Thoại Ngọc Hầu cho xây lại miễu khang trang hơn, lễ khánh thành diễn ra vào các ngày 24, 25, 26 tháng 4 âm lịch. Từ đó dân chúng lấy ngày nầy làm lễ vía Bà.
Lễ vía Bà Chúa xứ là sinh hoạt văn hóa đẹp của người đồng bằng sông Cửu Long nói riêng của Nam bộ nói chung. Ở đây chúng tôi chỉ nêu lên một vài cảm nhận về những nét đẹp của nó.
T.V.N.

(tuoitreangiang.com)
MẮM ĐỒNG MIỆT VƯỜN


NGUYỄN TRUNG NGUYÊN


Một trong những món ăn thuần túy Việt Nam, có thể nói mắm cá đồng là một loại thực phẩm có nguồn gốc lâu đời nhất. Đã là người Việt Nam chắc rằng suốt trong quãng đời của mình không ai là không một lần nếm cái vị mắm đậm đà, dân dã mà khó quên ấy. Nhiều người Việt xa quê, nổi nhớ cố hương quyện chặt cùng sự thèm thuồng được một lần ăn lại con mắm cá linh xé nhỏ cặp mấy miếng chuối dông, miếng khế, cọng rau thơm... ngốn ngấu cục cơm nguội đến nao lòng.
Ở Đồng bằng sông Cửu Long nơi nào cũng có mắm nhưng để gọi là đặc sản địa phương thì có lẽ chỉ ở Châu Đốc và U Minh. Trong dân gian có nhiều cách chế biến, sử dụng mắm đồng. Tùy mỗi loại cá mà người ta có cách chế biến khác nhau. Có nhiều loại cá làm mắm được nhưng thông thường người ta hay dùng các loại: cá linh, cá rô, cá sặc và cá lóc để làm. Riêng ở vùng rừng U Minh còn có loại mắm sống hảo hạng là mắm lòng (người ta lấy ruột của cá lóc mà làm mắm). Nhiều người cho rằng mắm lòng chính là tiền đề cho mắm thái sau nầy mà hiện nay đã xuất hiện tận nước ngoài.
Cũng như bao nhiêu món ăn khác, đặc biệt với một bữa ăn mắm, rau là thứ phụ gia không thể thiếu, nhưng phải là rau vườn hái ở đâu đó mỗi thứ một mớ thì mới “đã”. Ở Cần Thơ có lẫu mắm Dạ Lý nổi tiếng, ai đã đến đó đều biết một bữa rau của quán nầy phải đến gần 30 loại. Từ rau muống, bông súng, bông điên điển, cù nèo, tai tượng đến rau dừa, khế, chuối chát... còn gia vị thì có xã, ớt, gừng non, củ riềng... Nhiều người sành điệu còn cầu kỳ hơn như rau muống thì phải là rau muống chồi, vì loại nầy ít mủ, lại dòn hơn rau muống đọt. Còn bông súng thì phải là bông súng hoa vì loại nầy vừa dòn vừa ngọt hơn bông súng lá. Người ta nhìn vào ruột của cọng bông súng để phân biệt, nếu có 7 lỗ thì đó là bông súng hoa còn bông súng lá chỉ có 5 lỗ.
Các loại mắm ở vùng đồng bằng dù là của Châu Đốc hay U minh đều có cách làm tương tự nhưng hơn kém nhau ở một phương thức bí mật gọi là “chao mắm”. Giai đoạn nầy được tiến hành sau hai tuần lễ muối cá. Vật liệu chao mắm gồm có nước đường “thắng tới chỉ” và thính được làm từ gạo lức rang vàng, giã nhỏ. Việc đưa các phụ liệu vào cá muối với một liều lượng thích hợp là cả một nghệ thuật vì đây là giai đoạn quyết định sự ngon, dở của cả lu mắm.
Mùa tát đìa, thu hoạch rộ do có quá nhiều cá đồng được dùng làm mắm. Với cá lóc bộ ruột rất ngon, bỏ thì tiếc nên bà con U Minh đã nghĩ ra cách tận dụng ruột cá mà chế ra mắm lòng. Đây là một loại mắm rất ngon được sản xuất bằng một phương pháp đặc biệt với nguyên liệu chính là ruột cá lóc. Mùa khô, cá lóc rất mập, bộ ruột của nó có cả một màng mỡ bao quanh như mỡ sa của heo, đôi khi có cả trứng cá vàng ươm trong bọc. Cách làm mắm lòng cũng như các loại mắm khác nhưng cái đặc biệt ở đây là do có ít nên nó được nhận vào trong cái gáo dừa chớ không phải là lu hay khạp. Đến một thời gian nhất định nào đó, chất mỡ ngấm dần vào ruột, gan cá tạo nên sự độc đáo không giống bất cứ loại mắm nào. Tuy nhiên, do số lượng mắm lòng có hạn không đủ cung cấp cho nhu cầu ăn uống của con người nên từ đó xuất hiện thêm một loại mắm mới. Đó là mắm thái hay còn gọi là mắm ruột, tức mắm lòng. Kỹ thuật chế biến mắm thái người ta cố gắng sao chép lại từ hình thức đến nội dung của mắm lòng.
Ở mắm thái người ta dùng trái đu đủ xanh bào ra làm gỏi trộn với mắm mà người ta đã dùng một loại dụng cụ đặc biệt làm cho thịt mắm bung ra thành những sợi dài trông như ruột cá. Để tạo chất béo người ta trộn vào đó mỡ heo hoặc thịt ba rọi tùy ý thích. Vào thập niên 60 của thế kỷ trước, mắm thái Châu Đốc nổi tiếng như cồn bởi một nhân vật: bà giáo Khỏe. Hiện nay, hậu duệ của mắm thái bà giáo Khỏe vẫn là mặt hàng được ưa chuộng ở Châu Đốc.
Đất nước mở cửa, thị trường tràn ngập đủ loại thực phẩm cao cấp, đa dạng, phong phú mang lại cho bữa ăn của con người nhiều chất dinh dưỡng. Tuy nhiên, mắm đồng vẫn là loại thực phẩm được ưa chuộng đối với không ít người Việt Nam. Xét một góc độ nào đó mắm đồng còn có khả năng tồn tại lâu dài, vì trước hết nó là một món ăn mang nặng tình quê.


Thứ Tư, 25 tháng 2, 2009

CA DAO

(Ảnh Nguyễn Quỳnh Ngọc - bauchon.tuoitre.com.vn)


TÌNH YÊU TRÊN SÔNG NƯỚC
QUA NHỮNG CÂU CA DAO, CÂU HÁT.


THANH TUẤN
Ở Thành phố Cần Thơ quê tôi, người dân ngoại thành hễ mở mắt ra là nhìn thấy sông nước. Nước ăm ắp ngầu đỏ con rạch dưới bến trước cửa, nước trong mương ranh lé đé liếm gần sát sàn lãn bên hè, tiện lợi để làm nơi rửa ráy, tắm giặt cho gia đình. Nhưng dòng sông, mương ranh khi lớn khi ròng, không có vẻ dửng dưng bất biến như những thực thể ngoài thiên nhiên khác: khu vườn, cánh đồng. Mấy tháng trước con rạch còn cạn trơ bãi sình nay nước đã tràn lan khắp nơi, cánh đồng sau nhà mênh mông trắng xóa. Sống kề bên sông, đặc biệt nếu được ngồi trên một con thuyền ngược xuôi trong một khoảng không gian bao la giữa lúc chiều muộn sông đầy, những người có tâm sự thấy cần lắm một sự san sẻ của ai đó cho đỡ cô đơn. Cho nên trong một chừng mực nào đó, ta có thể khẳng định những dòng sông đã là nơi gặp gỡ, ngỏ ý, phát triển và cả những hệ lụy của nhiều cuộc tình quê, làm kho tàng ca dao câu hát của chúng ta lung linh thêm nhiều màu sắc:
A. Gặp gỡ làm quen:
Thuyền ai trôi trước / Cho tôi lướt đến cùng.
Chiều đã về trời đất mông lung / Phải duyên thì xích lại,
Cho đỡ não nùng tiếng sương.
Những ai từng đi thuyền trong đêm vắng trên những nhánh sông rạch chằng chịt ở miệt vườn Cần Thơ rất dễ thông cảm cho tâm trạng của tác giả mấy câu hát trên đây. Giữa khoảng thiên nhiên vắng vẻ mênh mông cái ta của mình nhỏ nhoi và yếu ớt biết chừng nào. Lúc đó ta thấy thèm và thật sự mừng khi bắt gặp dù chỉ là một dấu hiệu hiện hữu mơ hồ của đồng loại, như một đóm nhang đo đỏ ngoài bàn thông thiên ai đó, hoặc một ánh đèn dầu hắt ra từ sau vách lá một căn nhà nho nhỏ ven sông. Cho nên những ghe thuyền đi ban đêm hay tìm cách quần tụ bầu đoàn:
Bớ chiếc ghe sau chèo mau anh đợi,
Kẻo khúc sông nầy bờ bụi tối tăm.
Để có thêm bạn hủ hỉ làm vui trên một khúc sông xa, nhiều người đã không ngại tiến tới làm quen:
Thuyền ai đứng chực bên sông,
Có lòng đợi khách hay không hỡi thuyền?
Để ta kết nghĩa làm quen.
Ngoài việc làm quen giữa người ở ghe nầy với người bên xuồng kia, các chàng trai đường sông cũng không bỏ qua những cô gái đang lao động vất vả hai bên bờ:
Cô kia cắt cỏ bên sông,
Có muốn ăn nhãn thì lồng sang đây.
Do chưa biết gì về nhau nên việc làm quen cũng phải nhẹ nhàng lịch sự, hiếm khi có trường hợp suồng sả:
Hai thuyền đi chung một dòng,
Bơi chèo gần lại cho lòng đỡ suông.
Chào cô trước mũi tiên phuông,
Chào cô sau lái, mặt vuông chữ điền.
Sau màn làm quen, người ta thường hay thử thách tài ứng đối để tìm hiểu tài năng và tánh ý nhau qua những câu ca dao, hò mép:
Khăn vuông bốn chéo một chùm,
Miệng mời người nghĩa hò dùm ít câu.
Qua một vài câu hò trao đổi tìm hiểu, nếu tình cảm dần dần tiến triển, một trong hai người bắt đầu nói xa nói gần:
Nước sông cuồn cuộn chảy xuôi,
Có con cá diếc đỏ đuôi theo mồi.
Hoặc:
Bên sông thanh vắng một mình,
Có ông ngư phủ biết tình mà thôi.
B. Giai đoạn ngỏ ý:
Từ giai đoạn nói xa nói gần cho đến lúc ngỏ ý chỉ còn một khoảng cách ngắn và thường nặng về cảm tính. Trong một phút giây lãng mạn nào đó, có thể sẽ có một người nam bỗng cất giọng hò:
Muốn cho sông cạn đò đầy,
Muốn chung cha mẹ sau nầy với em.

Hoặc:
Sóng bên doi, bỏ vòi qua vịnh,
Anh với nàng trời định đã lâu.
Khi đã được dấu hiệu thuận lợi, lời lẽ chàng trai càng lúc càng nồng nàn, tình cảm hơn:
Ấy ai dắt mối tơ mành,
Cho thuyền quen bến, cho anh quen nàng.
Nhưng cũng có chàng trai nhìn những lượn sóng bỏ vòi trùng điệp trên sông dài mà cảm thương thân, do một nghịch cảnh nào đó nên anh không dám ngỏ lời:
Sông sâu sóng bủa láng cò,
Thương em đứt ruột, giả đò làm ngơ.
Trong tình yêu, không có phút giây nào hồi hộp bằng lúc trao thơ tình, và đây là những lời lẽ mộc mạc của một chàng trai sông nước trong những giây phút hồi hộp ấy:
Con chim chuyền bụi sậy / Con cá quậy bụi tùng.
Anh thương em thảm thiết vô cùng,
Dĩa nghiên mài mực, tạm dùng bức thư.
Một chàng trai miệt vườn khác còn độc đáo hơn, đã có sáng kiến gởi thư tình không dán tem nhưng có “khuyến mãi” một trái bưởi:
Giấy tây bán mấy / Mua lấy một tờ.
Đem về làm bài thơ quốc ngữ / Dán vào trái bưởi /
Thả xuống sông giang hà.
Cả tiếng kêu người nghĩa nọ trên nhà,
Xuống sông vớt bưởi đặng mà xem thơ.
Trước sự bày tỏ thẳng thắn của những chàng trai, nhiều cô gái cũng không ngần ngại bày tỏ nỗi lòng:
Chèo mau để thiếp gặp anh.
Hai ta hiệp lại cho thành một đôi.
Cũng có trường hợp vì một lý do riêng, người nữ e ngại không dám đáp ứng yêu cầu:
Trời mưa ướt đất, con cá cất lên đồng,
Buổi xuân xanh mình không được gặp.
Giờ em có chồng rồi gặp gỡ làm chi.
Nhưng thông thường những trở ngại, vướng mắc hay ở về phía những người nam do thích “đa mang”:
Phải chi anh chưa vợ / Hãy còn nợ còn duyên.
Em cũng cậy yên / Như thuyền cậy lái.
Ai ngờ phận gái / Như lái nghịch chèo.
Thôi anh hãy giữ lấy lèo / Đừng ham thả lỏng hiểm nghèo có khi.
Nhưng đôi khi cũng có những trường hợp ngược lại:
Sông sâu mà sắm đò ngang,
Em nhiều nhân ngãi, em mang oán thù.
Tâm lý phái nữ xưa nay dù đã để ý thương ai thường hay dè dặt và muốn bàn tính chuyện lâu dài:
Trăm năm tính cuộc vuông tròn,
Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông.
Các cô nàng khéo léo nhóng ý người yêu:
Anh về xẻ ván cho dày,
Bắc cầu sông cái cho thầy mẹ qua.
Nhưng trên sông dài muôn ngả không ít trường hợp nhiều chàng trai chỉ tính chuyện ăn xổi ở thì:
Chật hào cá lội sen rung,
Choàng ngang cổ bạn, anh hun cho đỡ lòng.
Có anh còn tham lam không cần giấu giếm:
Cam sành lột vỏ còn the,
Thấy em còn nhỏ, anh de để dành.
Trong trường hợp người nam do dự nửa muốn nửa không, người con gái vừa khuyến khích vừa có cách nói nâng giá trị của mình:
Kinh xáng mới đào / Tàu Tây mới chạy.
Thương thì thương đại / Bớ điệu chung tình.
Con nhạn bay cao khó bắn / Con cá dưới ao Quỳnh khó câu.
Cũng có khi nàng bày tỏ nỗi thất vọng:
Có thương em thì thương cho chặt / Có bỏ thì bỏ cho luôn.
Anh đừng học thói ghe buôn / Lờ đờ nước hến cho buồn dạ em.
C. Phát triển tình yêu:
Sau giai đoạn thử thách, khi tình cảm đã chín muồi, hai đối tượng lúc nào cũng háo hức tìm cách gặp gỡ:
Yêu nhau anh muốn lại gần,
Cầu không tay vịn, anh cũng lần anh đi.
Hoặc:
Đêm trường nước chảy trong veo,
Thương em chẳng nệ mái chèo ngược xuôi.
Trong nhiều trường hợp, nữ giới cũng nồng nhiệt, khao khát không thua gì phái nam:
Yêu nhau chữ vị là vì,
Chữ dục là muốn, chữ tùy là theo.
Ba chữ khoán vĩ từ ba mệnh đề ấy, đọc theo thứ tự là vì muốn theo
chứng tỏ nhân vật nữ nầy vừa có học vừa táo bạo. Một nhân vật nữ khác cũng lãng mạn và nông nổi không kém:
Ước gì sông hẹp một gang,
Bắc cầu giải yếm cho chàng sang chơi.
Khi đã yêu nhau, nữ giới cũng rất thoáng không phân biệt sang hèn, người cố cựu với khách lang bạt phương xa:
Rồng chầu ngoài Huế / Ngựa tế Đồng Nai.
Nước sông trong chảy lộn sông ngoài,
Thương người xa xứ lạc loài tới đây.
Nàng sẵn sàng chia sẻ gian nan cùng người chồng tương lai:
Anh đi ghe rổi chín chèo,
Bởi anh thua bạc nên nghèo nợ treo.
Nợ treo mặc kệ nợ treo,
Em bán bánh bèo trả nợ cho anh.
Nhưng cô bán bánh bèo nầy chắc phải chào thua một cô bán bánh bò sau đây về mức độ yêu chồng:
Bánh bò một vốn, ba bốn đồng lời,
Em khuyên anh ở nhà cứ việc ăn chơi,
Để em buôn bán kiếm lời nuôi anh.
C. Hệ lụy:
Tình yêu không phải lúc nào cũng xuôi chèo mát mái, nó thường gặp trở ngại. Trở ngại thường gặp nhất là cha mẹ hai bên không tán thành:
Lồng đèn treo cột đáy / Nước chảy lồng đèn rung.
Anh với em đi ra cũng xứng / Mà đứng lại cũng vừa.
Chỉ tại hai bên cha mẹ kén lừa sui gia
Nhưng:
Lồng đèn treo cột đáy / Nước chảy lồng đèn xoay.
Dĩa nghiêng múc nước không đầy,
Lòng thương người nghĩa cha mẹ rầy cũng thương.
Có khi cuộc tình trở ngại do một trong hai người gặp hoàn cảnh phải chia xa:
Ghe anh lui về Gia Định
Em thọ bịnh đau liền,
Không tin anh hỏi lại xóm giềng có không.
Do tình yêu không suôn sẻ nên có khi chỉ cách một bến sông mà cũng không có lý do thăm viếng:
Sông sâu sào vắn khó dò,
Muốn qua thăm bậu ngặt đò không đưa.
Không thăm được nhau thì sầu khổ, nhung nhớ khôn nguôi:
Trời xanh kinh đỏ đất xanh,
Đĩa bu muỗi cắn làm anh nhớ nàng.
Nỗi nhớ nhung còn được đẩy lên cao trào khi nhìn ra sông rộng:
Ngó ra sông cái / Ngó ngoái thấy đình.
Hạc chầu thần còn đủ cặp / Huống chi mình lẻ đôi.
Có người chỉ thương nhớ, than thân trách phận một cách thụ động:
Ghe lui khỏi bến còn dầm,
Người thương đâu mất chỗ nằm còn đây.
Hoặc:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Trông về Thị Đội ruột đau chín chiều.
Nhiều người khác lại chủ động hơn, muốn bảo vệ người yêu:
Cá sầu ai cá chẳng quạt đuôi,
Như lan sầu huệ như tui sầu mình.
Tử sanh sanh tử tận tình,
Dù ai ngăn đón, tui cứ mình tui thương.
Và người ta động viên nhau:
Sông hồ một giải con con,
Gặp cơn sóng gió chớ non tay chèo.
Yêu nhau sanh tử cũng liều,
Thương nhau lặn suối qua đèo có nhau.
Những mối tình trên sông nước trên đây dù có trắc trở hay không, cũng đã phôi pha theo qui luật cuộc đời, chỉ còn lại những câu ca dao, câu hát huê tình, gợi nhớ một thời xuồng ghe tấp nập nơi các ngôi chợ vàm hay những xóm ven sông, chỗ giáp nước. Đây chính là một loại văn hóa phi vật thể đặc trưng, cái hồn sông của vùng sông nước Tây Nam Bộ mà Thành phố Cần Thơ là một điểm hợp lưu tiêu biểu. Cái hồn sông nầy vẫn là một thứ mạch ngầm mát rượi vẫn len lỏi xuyên suốt qua nhiều đời tận trong tâm khảm của chúng ta.

CƠM CHAY


CƠM CHAY CẦN THƠ

TS.Trần Văn Nam

Hầu hết các thành phố, thị xã thuộc đồng bằng sông Cửu long đều có quán cơm chay. Thành phố Cần Thơ cũng thế, thực khách có thể tìm một nơi ăn cơm chay ngon trên các con đường lớn. Trong bài viết nầy, chúng tôi xuất phát từ thực tế khảo sát các quán cơm chay thuộc nội thành Cần Thơ.
Sau đây là bảng Thực đơn khá phổ biến của các quán cơm chay Cần Thơ:
1. Phở 14. Bún cary
2. Bánh mì - bò kho 15. Cơm phần
3. Mì xào giòn 16. Cơm rang
4. Mì 17. Cơm tấm
5. Hủ tíu 18. Cơm dĩa
6. Hủ tíu xào 19. Bánh ướt
7. Bún măng 20. Bánh lọt
8. Bún thịt nướng 21. Cháo
9. Bún Huế 22. Bánh giò
10. Bún rêu 23. Bánh bao
11. Bún chả giò 24. Chả giò
12. Bún xào 25. Gỏi cuốn
13. Bún mắm 26. Rau câu
So với trên dưới 200 món ăn trong các sách dạy "Nấu món chay"đã được công bố thì bảng thực đơn trên khá đơn giản, gồm 21 món "ăn no" (từ 1 đến 21), 4 món "ăn thêm" (từ 22 đến 25) và một món tráng miệng (26). Đây là những món ăn không yêu cầu một "quy trình chế biến" phức tạp hay cách thức bày trí cầu kỳ(nếu so với các món khác như món kiểm chẳng hạn...) và chúng đã được thực khách chấp nhận.
Nếu thực khách gọi "cơm dĩa" thì trong dĩa cơm có các thức sau: cơm, đậu hủ , mì căng (một loại đậu hủ non) xào và xắt mỏng; cải xanh, bắp cải xắt nhỏ xào. Ngoài ra, còn có thêm một ít dưa leo muối hoặc cải làm dưa.Trong quá trình chế biến người ta thường cho thêm tiêu vào các món xào. Đặc biệt, vị cay của tiêu cộng với vị mặn của nước tương làm cho miếng đậu hủ xào càng thêm ngọt bùi. Cộng vào dĩa cơm còn có một chén "canh chua" nhỏ, trong đó gồm cà chua, bạc hà và giá. Nếu thực khách gọi thêm 2 gỏi cuốn bên cạnh chén xì dầu (dùng cho ăn chay) pha hai muỗng cà phê tương ớt thì tuyệt vời. Gỏi cuốn chấm xì dầu tương ớt (tương ớt không cay xé môi như ớt tươi mà chỉ hơi nồng) vừa thấy vui mắt, kích thích vị giác vì độ tương phản của các màu trắng, đỏ, đen vừa cho thực khách một thoáng "dân dã" vì thường là dùng tay khi ăn. Món rau câu tráng miệng sẽ kết thúc bữa ăn giản dị, lưu lại vị ngọt và hương thơm.
Các quán cơm chay thường đông thực khách vào những ngày 14, 15 (rằm), 29, 30 âm lịch. Tác giả ca dao đã từng nhắc đến những ngày nầy:
Ngày rằm trăng tỏ trăng tròn,
Ba mươi mồng một anh còn ăn chay.

Sáng trăng sáng cả đêm rằm,
Nửa đêm về sáng trăng nằm ngọn cây.
Nhớ ngày mồng một ăn chay,
Cộng thêm mười bốn, trọn ngày mười lăm.
Tuy vậy, những ngày khác trong tháng các quán nầy vẫn có một lượng khách đáng kể, không thua kém các quán ăn "mặn". Đặc biệt các ngày cuối tuần, ngày cán bộ công chức và học sinh sinh viên được nghỉ, số người đi ăn cơm chay tăng lên rõ rệt. Tạm thời có thể chia thực khách cơm chay ra làm các nhóm sau đây:
Thứ nhất là những Phật tử (hoặc tín đồ thuộc các tôn giáo chịu ảnh hưởng Phật giáo) : trong số nầy có những người ăn chay từ 4 đến 10 ngày trong tháng, ăn chay suốt tháng (thường là tháng giêng, tháng bảy, tháng mười) hoặc cả năm (ăn chay trường). Đây là những người ăn chay theo quan niệm "tránh sát sinh" (hoặc chí ít cũng hạn chế việc sát sinh, nhắc nhỡ ý thức tránh sát sinh), hạn chế sự phát dục của cơ thể...
Thứ hai là những người lao động thu nhập thấp. Cơm chay Cần Thơ... là "cơm bình dân" trong tương quan so sánh với các món "mặn" khác. Người lao động có thu nhập thấp (trong trường hợp công việc lao động không đòi hỏi nhiều năng lượng) ăn cơm chay để tiết kiệm chi phí sinh hoạt. Hơn nữa, người ta có thể ăn nhẹ vào buổi chiều, bắt đầu thời điểm nghỉ ngơi, cơ thể và ngay cả dạ dày cần giảm hẳn cường độ làm việc.
Thứ ba là những người muốn thay đổi khẩu vị. Cả tuần ăn thịt cá toàn những món "cao lương mỹ vị" khi tìm đến cơm chay như tìm được một thứ "hương vị lạ"hoặc "hương xưa", thực khách có cảm giác ngon miệng hơn. Một bữa cơm chay đối với nhóm nầy nhiều khi tốn kém hơn một buổi cơm thường, bởi vì người ta gọi thêm món hoặc ăn "đúp" cho "đã thèm".
Quán cơm chay không chỉ có cơm mà còn có cả bún, hủ tíu, mì với các tên gọi cụ thể như bún khô, bún nước, cơm "thịt kho", hủ tíu-mì...Những thức ăn nầy xét cho cùng đều nằm trong khuôn khổ của các thứ sau đây: gạo-bột, đậu nành (tàu hủ, tương, chao), các loại rau, trái, củ. Có thể nói, các món chay là biểu hiện sâu sắc văn hóa ẩm thực của cư dân nông nghiệp. Đó là một cơ cấu bữa ăn lấy thực vật làm chính. Thực vật là sản phẩm của cư dân nông nghiệp từ ngàn xưa. Tục ngữ người Việt có câu "đói ăn rau, đau uống thuốc", và thuốc chữa bệnh chủ yếu vẫn là thực vật. Nói như vậy để thấy rằng việc ăn chay không đơn thuần là văn hóa ẩm thực Phật giáo mà còn là tập quán của cư dân nông nghiệp. Điều nầy góp phần lý giải câu hỏi vì sao có một lượng thực khách đáng kể đến quán cơm chay nhưng không phải là Phật tử. Ca dao cổ truyền người Việt ghi lại một cảnh đời của người nông dân thông qua món ăn mà cảnh đời ấy đã trở thành một niềm nhớ :
Ra đi anh nhớ quê nhà,
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương,
Nhớ ai dãi nắng dầm sương,
Nhớ ai tác nước bên đường hôm nao.
Sức mạnh của văn hóa ẩm thực truyền thống vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến lối ăn của người Việt tại đồng bằng sông Cửu Long. Trong các nhà hàng có những món ăn với nhiều rau, chẳng hạn như lẩu mắm, lẩu chua, lẩu mắt heo, bánh cống, bánh xèo...Một điều khá đặc biệt là trong các quán nhậu ngày nay đôi khi thực khách được "quay về" với món ăn thực vật (mang tính chất như món ăn chay), chẳng hạn như bầu luộc chấm chao, nấm xào dầu...Trong lúc đang ngà ngà say, một miếng bầu luộc còn âm ấm chấm với miếng chao vừa cay vừa mặn có thể làm người ta tỉnh lại.
Trong quán cơm chay, các món chay thường có tên của món mặn như "thịt kho, tôm kho tàu..." Dường như nguyên nhân ban đầu của thực tế nầy là việc gọi tên các món chay có khó khăn nhất đinh. Lý do đơn giản là đa số món ăn đều chế biến từ tàu hủ. Cứ tên gọi nào cũng có danh từ "tàu hủ" thì bảng thực đơn quá đơn điệu. Thực tế nầy đòi hỏi các "vua bếp "chay phải vay mượn tên gọi trong bảng thực đơn mặn. Trong chừng mực nào đó, đây là biều hiện của tính chất nhập thế của Phật giáo về mặt ẩm thực. Hơn nữa, một Phật tử, một nhà sư mà tâm của họ đã đạt đến cảnh giới cao thì những tên gọi của sự vật hiện tượng đều không quan trọng. Phật giáo đề cao cái tâm cho nên việc ăn chay hay ăn mặn có ý nghĩa đến mức độ nào còn tuỳ thuộc vào cái tâm ấy, như tác giả dân gian đã từng nhắc nhỡ qua tục ngữ:"Ăn mặn nói ngay còn hơn ăn chay nói dối"
Các quán cơm chay có nước giải khát nhưng tuyệt nhiên không có rượu, bia và thuốc lá. Theo Ngũ giới của Phật giáo thì uống rượu là điều cấm kỵ. Về vị trí, có quán cơm chay ngay trong khuôn viên chùa, có chỗ bày bán cơm chay cạnh chùa. Không gian ẩm thực nầy nhắc nhỡ chủ quán cơm giữ gìn giới luật, nên không có rượu Thực tế hơn, một quán cơm không có rượu (ngay cả quán cơm "mặn") sẽ tránh cho chủ quán những phiền toái khi phục vụ một số thực khách muốn uống "cho đã". Hơn nữa, những người uống rượu sành điệu đương nhiên sẽ tìm đến các nhà hàng, các quán nhậu. Cũng chính không gian ẩm thực nầy tác động ít nhiều đến cách giao tiếp trong quán ăn. Người phục vụ ở đây thường không cố ý nói những lời mượt mà như các tiếp viên nhà hàng mà là những lời chân thật, hoà ái. Đáp lại, thực khách cũng thường nói năng nhẹ nhàng, không có thái độ "ông chủ" hoặc "thượng đế". Trong một không khí như vậy hương vị món chay sẽ đậm đà hơn, bữa cơm chay tạo cho thực khách một cảm giác bình an, một thái độ hướng thiện, gạt sang một bên nỗi ám ảnh về cuộc sống lắm gian truân.
Bữa cơm chay trong gia đình (không phải quán ăn) người dân "miệt vườn" thường rất đạm bạc. Không phải vì thiếu tiền cho việc chuẩn bị bữa ăn mà do quan niệm về việc ăn chay. Ăn chay là hướng về một đời sống bình dị, đơn giản, khắc kỷ : "Ăn chay, nằm đất", "Gió trăng mát mặt, muối dưa chay lòng". Có khi trên bàn ăn chỉ một dĩa rau luộc với một chén tương chao hòa chung, có khi đó là một chén muối tiêu với vài trái chuối xiêm chín...Thực tế nầy còn do một nguyên nhân "đời thường" nữa. Gia đình có sáu nhân khẩu mà chỉ có ông bà già ăn chay, cứ mỗi nửa tháng ăn chay hai ngày. Vậy thì cứ "ăn lạt"để tiện việc cho người nhà, có khi đó là con dâu-một lao động chính.
Cơm chay là một nét văn hóa ẩm thực, nó tồn tại không chỉ do ảnh hưởng của Phật giáo mà còn do tiếp nối tập quán ăn uống của cư dân nông ngiệp. Cơm chay có tác động ít nhiều đến tinh thần và sinh hoạt đời sống cộng đồng. Cơm chay Cần Thơ không dành riêng cho những người ăn chay mà là món ăn cho những người hướng tới cái giản dị và trong trẻo trong đời sống thường nhật.

Thứ Ba, 24 tháng 2, 2009

Địa danh Cần Thơ

(Nhà việc Cái Răng xưa kia)

Ý THỨC LỊCH SỬ VÀ CẢM HỨNG THẾ SỰ
QUA MỘT SỐ TRUYỆN VÀ GIAI THOẠI ĐỊA DANH CẦN THƠ

Ts.Trần Văn Nam

Truyện kể địa danh hiểu một cách đơn giản và nói ngắn gọn là truyện có yếu tố giải thích tên riêng của vùng đất, làng, ngọn núi, dòng sông, cánh đồng…Bên cạnh truyện kể, ở một cấp độ khác với truyện, có thể tạm gọi là giai thoại địa danh: là những giai thoại nhằm giải thích những tên riêng chỉ địa điểm. Truyện hoặc giai thoại địa danh thường có yếu tố giải thích địa danh ở cuối tác phẩm dưới hình thức đặt tên cho địa điểm hoặc sự vật. Theo quan niệm nầy, chúng tôi tìm hiểu một số truyện (giai thoại) địa danh của Cần Thơ.
Những địa danh quen thuộc của Cần Thơ như Cần Thơ, Cái Răng, Xà No…đã từng được giái thích theo hướng nầy hoặc hướng khác. Chẳng hạn, “Cần Thơ” có nguồn gốc ban đầu là “cầm thi” hoặc “Cần Thơm” hay “kìn tho”. Bài viết nầy không đặt mục tiêu tìm hiểu cách giải thích ấy đúng hay sai mà chủ yếu quan tâm đến nội dung của các câu chuyện kể. Cách giải thích nguồn gốc địa danh trong những truyện kể nói chung dĩ nhiên mang đậm tính chủ quan, cảm tính của người kể chuyện. Ý thức tôn vinh lịch sử và cảm hứng thế sự là ở đây. Như vậy, chúng tôi không làm công việc “giải mã” địa danh (nghĩa là không theo hướng “từ nguyên học”) mà là “giải mã” những yếu tố giải thích địa danh, tức câu chuyện kể.
1.Ý thức lịch sử trong truyện và giai thoại địa danh Cần Thơ.
Tâm lý chung của nhân loại từ xưa đến nay là tâm lý muốn giải thích nguồn gốc tên gọi của các sự vật tự nhiên chung quanh và tên riêng chỉ địa điểm nơi mình sinh sống. Tâm lý nầy càng thể hiện rõ hơn đối với người Việt, những cư dân nông nghiệp sống gắn bó với tự nhiên. Do vậy, truyện địa danh phổ biến trên mọi miền đất nước: Sự tích Hồ Gươm (Bắc bộ), sự tích núi Ngũ Hành (Trung bộ), sự tích cù lao Ông Hổ (Nam bộ)…Tác giả dân gian Cần Thơ cũng không ngoại lệ. Bước đầu chúng tôi đã tập hợp được một số truyện kể và “lời giải thích” (chưa thể gọi là truyện) của người bình dân về nguồn gốc địa danh. Đó là những câu trả lời cho câu hỏi vì sao gọi là bến Ninh Kiều, rạch (chợ) Tham Tướng, Đầu Sấu, Cái Da, Mương Củi… Những truyện kể và “lời giải thích” nầy rõ ràng đã thể hiện sự quan tâm, tấm lòng của người bình dân đối với quê hương như tình cảm của họ đã từng gởi gấm trong ca dao.
Tình yêu quê hương bao giờ cũng gắn với ý thức lịch sử, đặc biệt là ý thức tôn vinh lịch sử. Không phải bất cứ sự kiện lịch sử nào cũng được móc nối vào truyện địa danh mà thường là những sự kiện có ảnh hưởng nhất định đối với nhân dân một địa phương hoặc cả nước. Người ta gọi con rạch là rạch Tham Tướng để nhắc nhớ đến vị Tham tướng họ Mạc trung nghĩa.
Như trên đã đề cập, chung quanh tên gọi “Cần Thơ” hiện tồn tại một cách giải thích của các nhà ngữ học (gắn với từ nguyên “kìn tho”) và một cách giải thích của dân gian cho rằng đây là nơi có nhiều rau cần rau thơm, gắn với câu ca:
“Rau cần rau thơm xanh muớt,
Mua mau kẻo hết, chậm bước không còn”
“Rau cần lại với rau thơm,
Phải chăng đất ấy rau thơm có nhiều”
Chúng tôi muốn bàn đến một giai thoại quen thuộc khác về địa danh độc đáo nầy.Tương truyền trong thời kỳ lẩn tránh Tây Sơn, chúa Nguyễn Ánh đã từng đi thuyền trên dòng sông Hậu…Một đêm yên ả ông được nghe tiếng ngâm thơ, tiếng đàn hát từ xa vọng lại rồi nảy ra ý nghĩ ban cho con sông một cái tên, đó là “Cầm Thi giang”. Dần dần dân chúng đọc trại “Cầm Thi” thành “Cần Thơ” (Tóm tắt giai thoại dựa theo bản kể của Huỳnh Minh) (1). Giai thoại nầy nêu lên sự kiện “ tẩu quốc” của Nguyễn Ánh trong lòng một biến cố lịch sử trọng đại, đó là cuộc đối đầu giữa phong trào Tây Sơn với chúa Nguyễn. Điều quan trọng hơn, dường như tác giả dân gian đã dành cho người anh hùng trong thời kỳ thất thế một tình cảm đặc biệt. Bởi vì họ đã lưu giữ trong lòng một niềm tin, rằng tên gọi của vùng đất quê hương gắn với những thăng trầm của một nhân vật được nhân dân tin là có “chơn mạng đế vương”.
Giai thoại về địa danh Bình Thuỷ cũng tràn đầy cảm hứng lịch sử. Tương truyền, năm Nhâm tý 1852 Tuần phủ Huỳnh Mẫn Đạt trong một lần đi tuần thú bằng thuyền trên sông Hậu gặp sóng to gió lớn bất ngờ nổi lên. Ngay lúc đó viên quan hầu cận nhìn thấy một vàm rạch rồi khẽ bẩm với quan Tuần phủ, cho quân chèo thuyền vào đó, qua được cơn thịnh nộ của thuỷ thần. Quan Tuần phủ cho neo thuyền lại, gọi dân làng đến gạn hỏi mới biết rằng, con rạch nầy từ trước tới giờ chưa từng có sóng to gió lớn, người dân trong vùng sống an cư lạc nghiệp, hoa màu tươi tốt quanh năm. Quan Tuần phủ tuyên bố: “Nay ta nhờ theo dòng nước đến đây mà được bình an vô sự. Vậy ta đặt tên cho chỗ nầy là Bình Thuỷ”. Tên làng Bình Thuỷ có từ đó và còn lưu giữ đến ngày nay. (Tóm tắt giai thoại dựa theo bản kể của Huỳnh Minh) (2).
Cùng với khát vọng về một cuộc sống an bình, thịnh vượng giai thoại trên còn tái tạo một nhân vật có thật- Huỳnh Mẫn Đạt.Tuy không được nhắc đến nhiều như Bùi Hữu Nghĩa, Phan Văn Trị…song, ông vẫn là người được ca ngợi. Chính điều nầy thể hiện ý thức tôn vinh lịch sử của nhân dân.
Trong ý thức lịch sử ấy, công cuộc khai hoang xứ Cần Thơ đã in lại dấu ấn trong một số truyện. Truyện Sự tích miễu Ông khá tiêu biểu vì có một nét riêng so với nhóm truyện về cọp ở Nam bộ. Truyện về cọp ở vùng đất mới nầy thường có nội dung kể về mối liên hệ giữa người và cọp qua những hành động cụ thể: Cọp là đứa con nuôi hiếu thảo trong nhà (Nghĩa hổ, Sự tích cù lao Ông Hổ), cọp nhờ người giúp đỡ khi sinh nở (Bà mụ cọp), cọp được cử làm hương cả trong làng (Ông cả cọp), cọp đấu võ và giết người (Sự tích rạch Mồ Thị Cư), người giết cọp (Giết cọp ở Giồng Găng, Giết hổ cứu bạn). Riêng trong truyện Sự tích miễu Ông (dựa theo bản kể của Đặng Hoàng Thám) (3) con người đã đấu không lại cọp (cọp rằn bắt người làng chòi ăn thịt) nhưng sau đó tai hoạ qua đi vì hai cọp đấu nhau cho đến chết (cọp rằn và cọp trắng vật nhau từ đêm trước đến ngày hôm sau cho đến kiệt sức. Người “vô tình” chứng kiến cảnh hổ đấu bị kẹt trên chòi cao). Dân làng lập miễu thờ vì tin rằng đây là hai tướng nhà trời bị đày xuống thế gian. Miễu Ông hiện nay vẫn còn và có thêm chợ Miễu Ông. Việc thờ hai “ông hổ” có thể là bóng dáng xa xôi của tín ngưỡng sùng bái loài vật thời cổ. Nhưng người ta không đơn thuần thờ hai con hổ mà là thờ hai “ông hổ”, dường như đó là thờ cái khí phách kiên cường, thờ tinh thần chiến đấu dũng mãnh (thờ vì ngưỡng mộ). Dĩ nhiên nội dung truyện kể còn phản ánh hiện thực gian khó của thời kỳ đầu khai hoang. Với truyện nầy, cảm hứng lịch sử đã chuyển dần sang cảm hứng thế sự.
2.Cảm hứng thế sự trong truyện và giai thoại địa danh Cần Thơ
Trong những truyện địa danh sưu tầm được ở Cần Thơ, truyện Cá sấu xem hát bội là một truyện hay. Trong chừng mực nào đó cũng có thể đặt tên cho truyện nầy là Sự tích địa danh Đầu Sấu, Cái Da, Cái Răng.. Cuộc đấu tranh chinh phục tự nhiên lồng vào đời sống sinh hoạt của người Cần Thơ thời mở cõi, đồng thời nó cũng phản ánh bi kịch trong tình yêu và hôn nhân. Đây là thứ bi kịch rất riêng khác hẳn với bi kịch hôn nhân trong Sự tích Đá vọng phu…mà chúng ta từng biết. Truyện kể rằng, ngày xưa ở vàm sông Cần Thơ có một con sấu to bằng chiếc xuồng ba lá dài năm sáu thước, hung dữ mà lại thích xem hát bội…Năm nọ, con sấu đã tấn công đoàn xuồng ghe đám cưới làm cô dâu mất tích. Chú rể trả hận bằng cách tổ chức hát bội dụ sấu vào sâu trong rạch, nhờ trai làng đắp đập ngoài vàm nhốt nó lại rồi giết chết. Con sấu hung dữ bị xả thịt, “chỗ cái đầu trôi đến là rạch Đầu Sấu, chỗ bộ da trôi đến là rạch Cái Da, chỗ bộ răng trôi đến nay là chợ Cái Răng”. Sau đó chàng trai ra đi biệt xứ. (Tóm tắt truyện dựa theo bản kể của Ngọc Anh) (4). Chúng ta đã từng nghe kể khá nhiều truyện về sấu ở Nam bộ nói chung ở đồng bằng sông Cửu Long nói riêng như Bị sấu đớp mà thoát được, Sấu năm chèo…Nhóm truyện nầy cùng với truyện về những con cọp kỳ lạ, về cặp cá vồ cờ khổng lồ, những con rắn hung dữ… giúp người đọc ngày hôm nay hình dung ra một vùng đất giàu có sản vật nhưng hoang sơ “dưới sông sấu lội trên rừng cọp um”. Thế mới thấy được một phần công lao của tiền nhân vào buổi đầu khai phá. Nói đất phương Nam là đất “làm chơi ăn thiệt” thì chỉ nhìn ở góc độ thiên nhiên nơi đây ưu đãi con người. Góc độ thứ hai quan trọng hơn là thiên nhiên cũng tạo ra vô vàn thử thách đối với lưu dân. Câu chuyện Sự tích địa danh Đầu Sấu, Cái Da, Cái Răng vừa nêu trên phản ánh khía cạnh thứ hai. Con người buộc phải đối mặt với thú dữ là một thực tế. Hơn thế con người phải ứng xử với chúng theo nhiều cách trong nhiều hoàn cảnh và thái độ khác nhau. Nếu như trong Sấu năm chèo, sấu từng là con vật nuôi, trong Bị sấu đớp mà thoát được, sấu là sát thủ nguy hiểm thì trong truyện trên nó vừa là hung thủ giết người, là kẻ gieo tai họa cho cộng đồng, đặc biệt là nó đã phá tan mầm hạnh phúc vừa chớm nở. Sấu “mê hát bội” nhưng sấu lại giết người. Dường như hình tượng sấu ở đây là sự khái quát hoá của một sức mạnh không còn đơn thuần là của tự nhiên. Liệu có nên đặt câu hỏi “vì sao chàng trai ra đi biệt xứ ” ở cuối tác phẩm hay không ? Một kết cục đầy tâm sự, nhấn mạnh cảm hứng thế sự của tác giả dân gian. Do vậy đây không đơn thuần là câu chuyện về con sấu kỳ lạ mà còn là chuyện về bi kịch hôn nhân của chàng trai thời mở đất. Mở rộng ra, những Đầu Sấu, Cái Da, Cái Răng của Cần Thơ giàu đẹp hôm nay đã từng chất chứa bao nỗi niềm của những chàng trai thuở ấy.
Về mặt thể loại, truyện địa danh có thể là thần thoại, truyền thuyết hoặc cổ tích. Ở Cần Thơ chúng tôi chưa tìm thấy thần thoại giải thích địa danh. Điều nầy phù hợp với lý luận về tiến trình hình thành và phát triển văn học dân gian, khi mà điều kiện nảy sinh thần thoại –loại hình nghệ thuật “một ra đi không trở lại”- đã qua đi từ lâu. Hai giai thoạị gắn với hai nhân vật lịch sử Nguyễn Ánh và Huỳnh Mẫn Đạt đều có tính xác thực cao vì nó tái tạo hai nhân vật có thực, sự kiện trong giai thoại gắn chặt với sự thực lịch sử và không có yếu tố kỳ ảo. Hai truyện còn lại mang phong vị của truyện cổ tích sinh hoạt. Truyện có yếu tố khác thường (sấu mê hát bội, con người với phương tiện thô sơ đắp được đập ngăn sông) và yếu tố thần kỳ rất mờ nhạt. Chi tiết “hai ông hổ báo mộng cho dân làng biết mình là tướng nhà trời bị đày” không có vai trò quan trọng đối với cốt truyện mà chỉ nhằm nhấn mạnh một khía cạnh tư tưởng: cái ác cuối cùng đã bị đẩy lùi, thái độ phục thiện là đáng trân trọng. Như vậy, hơi thở cuộc sống hiện thực khá đậm đặc có thể xem là một đặc điểm của các truyện và giai thoại vừa khảo sát.
Hiện tại số lượng truyện và giai thoại địa danh sưu tầm tại Cần Thơ chưa nhiều để có thể rút ra những kết luận về đặc điểm nội dung và thi pháp của nhóm truyện nầy. Bước đầu chúng ta có thể cảm nhận được ý thức lịch sử và cảm hứng thế sự trong các tác phẩm hiện có.
3. Có thể hình dung ra một bước phát triển từ “lời giải thích” đến truyện dân gian về nguồn gốc địa danh.
Có những địa danh chỉ tìm được một cách giải thích. Chẳng hạn, tên gọi Mương Củi (thuộc xã Nhơn Ái, huyện Phong Điền) được giải thích như sau: con muơng tự nhiên do ngày xưa voi đi quật chết cây thành ra có nhiều củi. Có những địa danh có hai cách giải thích thậm chí là ba như Cần Thơ . Địa danh Xà No có hai cách giải thích như sau: Cách thứ nhất cho rằng Xà No là con rắn no. Tương truyền, người xưa đã nhìn thấy con mãng xà vì nuốt con nai nên mắc nghẹn nghĩa là quá “no”. Dưới cái nhìn của các nhà ngôn ngữ học thì cách giải thích nầy không ổn, vì yếu tố “xà”(từ Hán Việt) kết hợp với yếu tố “no” (thuần Việt). Tuy nhiên vì nó đã từng tồn tại nên chúng tôi ghi nhận, và việc đúng sai sẽ bàn sau. Chúng ta không loại trừ trường hợp còn những điều người xưa “chưa kể” nên người đời sau “chưa hiểu”. Cách giải thích thứ hai cho rằng Xà No, có nguồn gốc từ tiếng Khmer, nghĩa là “điên điển”, ý nói vùng Xà No ngày xưa rất nhiều cây điên điển (bông điên điển chế biến được nhiều món và ăn rất ngon). Cách giải thích thứ hai nầy có vẻ như “bác học” hơn. Điều có thể nói ở đây là, cách giải thích địa danh Mương Củi và Xà No nêu trên đã có những chi tiết mang “tính tự sự” nhưng chúng không chuyển hóa thành truyện được. Tiến thêm một bước, Sự tích địa danh Đầu Sấu, Cái Da, Cái Răng là truyện cổ tích sinh hoạt hẳn hoi, với các chi tiết khác thường (một đặc trưng của truyện cổ tích nói chung).Trên cái nền hiện thực tác giả dân gian đã hư cấu để câu chuyện trở nên lung linh. Đi qua thế giới nghệ thuât lunh linh ấy ta bắt gặp một cái nhìn xác thực mà thấm đẫm tình người.




________________________________
Chú thích:
(1), (2): Huỳnh Minh, (2001), Cần Thơ xưa, Nxb Thanh Niên
(3): Nhiều tác giả, (2005), Bước đầu tìm hiểu văn hoá dân gian Bình Thuỷ-Long Tuyền, Nxb Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh
(4):Ngọc Anh, (2000), Báo Cần Thơ xuân.

Thứ Năm, 19 tháng 2, 2009

THƠ NGUYỄN TRUNG NGUYÊN


CÔ EM HÀNG NƯỚC


Cô em hàng nước chiều tóc xõa
Lúng liếng môi cười áo tím hoa
Ta ghé lại đây tìm bóng mát
Nhọc nhằn rũ bớt bụi đường xa

Có phải quê em vùng châu thổ
Hương đất, hương vườn, hương tóc bay
Thơm cả hồn ta – trai tứ xứ
Trầu cau ắt chuộng đất nơi nầy

Có phải Tơ ông xưa có thật?
Đã cột ta – em sợi chỉ hồng!
Hay tách chè xanh đà hóa rượu
Say mèm đi sẽ khó thong dong

Cô em hàng nước chiều tóc xõa
Rộn rã tiếng cười dạt bóng đêm
Vì tình Từ Hải xưa chết đứng
Vì em ta tự nguyện chết chìm

Thôi giã từ em cô hàng nước
Chẳng có cây đàn để bỏ quên
Men tình em tặng cho ta sống
Xa rồi chợt buốt cả con tim.

Thứ Bảy, 24 tháng 1, 2009

TỔNG KẾT HOẠT ĐỘNG NĂM 2008

(TS Trần Văn Nam Phân hội trưởng Phân hội VHDG phát biểu khai mạc tổng kết)
(Các hội viên nhận bằng khen của TW Hội Văn học dân gian Việt Nam)



Ngày 22 tháng 1 năm 2009 ( nhầm ngày 27 tết Kỷ Sửu 2009) Phân hội Văn học Dân gian trực thuộc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật TP. Cần Thơ đã tổ chức buổi lễ tổng kết hoạt động của phân hội trong năm vừa qua 2008 tại văn phòng Liên hiệp Hội (170 Lý Tự Trọng, TP. Cần Thơ). Tham dự buổi lễ có đông đủ hội viên Phân hội Văn học dân gian và một số khách mời. Trong diễn văn phát biểu khai mạc buổi lễ Tiến sĩ Trần Văn Nam phân hội trưởng Phân hội Văn học Dân gian đã phát biểu đánh giá một số hoạt động nổi bật của phân hội trong năm vừa qua. Nhìn chung hoạt động của phân hội Văn học dân gian khá nổi bật, ngoài hai chuyến đi thực tế, một do phân hội tổ chức đi tập thể tại Hòn Tre, còn có một đợt đi thực tế trong phạm vi địa phương theo từng tổ nhóm do phân hội hỗ trợ kinh phí (mỗi người 500 ngàn đồng) đã thu được nhiều kết quả khả quan. Đặc biệt tác phẩm tập hợp các bài vở của anh em hội viên trong năm 2008 đã nhận được giải khuyến khích của TW Hội Văn học dân gian Việt Nam. Tới đây, năm 2009 Phân hội sẽ tổ chức một chuyến đi thực tế tại miền Đông và in ấn tác phẩm chủ đề: “Các phong tục tết ở Đồng bằng Sông Cửu Long”.